Tác giả: Le Dung

  • Vietcombank hợp tác thu bảo hiểm trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

    Vietcombank hợp tác thu bảo hiểm trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

    Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Bảo hiểm xã hội TP. Hồ Chí Minh vừa ký kết thỏa thuận hợp tác thu phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh.

    VCB trien khai ky ket BHXH tren dia ban TP.HCM

    ham dự buổi lễ ký kết, có Ông Cao Văn Sang – Giám đốc Bảo hiểm xã hội TP.Hồ Chí Minh; bà Trương Thị Thúy Nga – Phó Tổng giám đốc kiêm Giám đốc chi nhánh Vietcombank TP.Hồ Chí Minh cùng đông đảo, cán bộ đại diện các đơn vị của hai bên.

    Đây là một trong những động thái hiện thực hóa Hợp đồng số 190914/BHXH-NHNT ngày 19/9/2014 về hợp tác thu, thu nợ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) giữa Vietcombank và Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Theo đó, Vietcombank sẽ triển khai thực hiện thu BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh qua 12 chi nhánh Vietcombank gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Nam Sài Gòn, Bắc Sài Gòn, Đông Sài Gòn, Bến Thành, Bình Tây, Kỳ Đồng, Phú Thọ, Quận 5, Tân Bình, Tân Định và Thủ Đức.

    Đại diện hai bên đã bày tỏ tình cảm tốt đẹp và tin tưởng mối quan hệ hợp tác giữa hai đơn vị sẽ mở ra những cơ hội hợp tác toàn diện và đạt hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, đồng thời nhấn mạnh thỏa thuận được ký đánh dấu một bước ngoặt mới trong quan hệ hợp tác giữa hai bên với mục tiêu không ngừng cung cấp, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ hiện đại, tiện ích cho khách hàng.

    Việc triển khai thỏa thuận hợp tác thu BHXH, BHYT, BHTN với Bảo hiểm xã hội Việt Nam bước đầu được Vietcombank thực hiện tại 11 tỉnh, thành phố sau đó sẽ tiếp tục triển khai nhân rộng.

    Theo tapchitaichinh

  • Giảm 50% thuế TNCN cho 5 đối tượng làm việc trong khu kinh tế

    Giảm 50% thuế TNCN cho 5 đối tượng làm việc trong khu kinh tế

    Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 128/2014/TT-BTC hướng dẫn việc giảm thuế Thu nhập cá nhân đối với cá nhân làm việc tại Khu kinh tế (KKT).

    KKTẢnh minh họa:khu kinh tế

    Theo đó, 5 đối tượng được giảm thuế gồm: Cá nhân ký hợp đồng lao động với Ban quản lý KKT, cơ quan quản lý Nhà nước tại KKT và thực tế làm việc tại KKT; Cá nhân ký hợp đồng lao động với tổ chức, cá nhân có cơ sở kinh doanh tại KKT và thực tế làm việc tại KKT; Cá nhân ký hợp đồng lao động với tổ chức, cá nhân ngoài KKT, nhưng được cử đến làm việc tại KKT để thực hiện các hợp đồng kinh tế do tổ chức, cá nhân ngoài KKT ký kết với Ban quản lý KKT, cơ quan quản lý Nhà nước tại KKT hoặc với tổ chức, cá nhân có hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh tại KKT; Cá nhân, nhóm cá nhân có địa điểm kinh doanh cố định tại KKT, thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tại KKT; Cá nhân ký hợp đồng lao động với tổ chức tại KKT và thực tế làm việc tại Khu xử lý chất thải độc hại của KKT mà theo quy định của Nhà nước về môi trường và quy hoạch KKT được phê duyệt thì Khu xử lý chất thải độc hại này phải đặt ngoài KKT.

    Thu nhập làm căn cứ tính số thuế TNCN được giảm là thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công mà cá nhân nhận được do làm việc tại KKT được Ban quản lý KKT, cơ quan quản lý Nhà nước tại KKT hoặc tổ chức, cá nhân có cơ sở kinh doanh tại KKT trả; thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công của cá nhân được cử đến làm việc tại KKT nhận được do tổ chức, cá nhân ngoài KKT trả để thực hiện các hợp đồng kinh tế ký kết với Ban quản lý KKT, cơ quan quản lý Nhà nước tại KKT hoặc tổ chức, cá nhân có hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh tại KKT.

    Ngoài ra, thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh tại KKT của cá nhân, nhóm cá nhân được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tại KKT và thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công của cá nhân nhận được do làm việc tại khu xử lý chất thải độc hại của KKT đặt ngoài KKT cũng là các căn cứ để xác định số thuế được giảm.

    Thông tư này có hiệu lực từ 20-10-2014 và thay thế Thông tư số 176/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính.

    Trước đó, ngày 26-11-2013, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg quy định cơ chế chính sách tài chính đối với KKT cửa khẩu.

    Quyết định có nêu: “Người Việt Nam và người nước ngoài trực tiếp làm việc, sản xuất kinh doanh tại khu kinh tế cửa khẩu, có thu nhập từ việc làm, sản xuất kinh doanh tại khu kinh tế cửa khẩu thuộc diện chịu thuế TNCN theo quy định tại Luật Thuế TNCN được giảm 50% số thuế phải nộp.”

    Thông tư số 128 nêu trên cụ thể hóa nội dung này trong Quyết định số 72 của Thủ tướng Chính phủ.

  • Bộ LĐTBXH trả lời kiến nghị về sửa đổi cách tính lương hưu

    Bộ LĐTBXH trả lời kiến nghị về sửa đổi cách tính lương hưu

    Cử Tri tỉnh Tiền Giang đề nghị Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội xem xét lại quy định về cách tính lương hưu đối với người lao động ở doanh nghiệp, vì theo cách tính lương bình quân suốt quá trình đóng BHXH như hiện nay là thiệt thòi cho người lao động.

    Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trả lời cử tri tỉnh Tiền Giang như sau:

    Một trong những nguyên tắc khi thực hiện chính sách BHXH là “mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH”. Do thời gian đóng BHXH với các mức lương khác nhau nên khi hưởng phải tính lương hưu bình quân toàn bộ quá trình đóng thì mới bảo đảm được nguyên tắc đóng hưởng.

    Tuy nhiên, với thực trạng chính sách hưu trí hiện nay đang được đánh giá là mức đóng chưa tương ứng với mức hưởng (tỷ lệ đóng góp vào quỹ hưu trí và tử tuất còn thấp so với tỷ lệ hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH), công thức tính lương hưu chưa hợp lý với tỷ lệ tích lũy cao trong khi tỷ lệ giảm trừ mức hưởng lương hưu đối với trường hợp nghỉ hưu trước tuổi quy định lại thấp so với nguyên tắc đóng – hưởng,… từ đó đặt ra những thách thức trong việc đảm bảo cân đối Quỹ BHXH.

    Hiện nay, người lao động thuộc khu vực hưởng lương theo thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động quyết định thì thực hiện quy định bình quân tiền lương của cả quá trình tham gia BHXH để bảo đảm thực hiện nguyên tắc nêu trên.

    Để đảm bảo sự bình đẳng trong việc tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH giữa người lao động thuộc khu vực Nhà nước và ngoài Nhà nước, Dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) quy định đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 1/1/2018 trở đi thì khi nghỉ hưu sẽ tính bình quân tiền lương của toàn bộ thời gian đóng BHXH như người lao động thuộc khu vực hưởng lương theo thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động quyết định.

    Trong quá trình thảo luận có ý kiến cho rằng cần có bước đi, ban soạn thảo đang xây dựng các phương án để Quốc hội cân nhắc quyết định.

    Chinhphu.vn

  • Chế độ nghỉ ốm

    Chế độ nghỉ ốm

    Theo quy định của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội thì thời gian hưởng chế độ ốm đau được quy định như sau:

    Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hằng tuần, được quy định: Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên.

    Người lao động mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành thì được hưởng chế độ ốm đau như sau: Tối đa không quá 180 ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hằng tuần. Hết thời hạn trên mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn.

    Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

    Người lao động hưởng tiếp chế độ ốm đau thì mức hưởng được quy định: Bằng 65% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 30 năm trở lên; bằng 55% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; bằng 45% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm.

    Người lao động sau thời gian hưởng chế độ ốm đau mà sức khoẻ còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 5 ngày đến 10 ngày trong một năm. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại cơ sở tập trung.

    Người lao động sau thời gian hưởng chế độ ốm đau mà sức khoẻ còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 5 ngày đến 10 ngày trong một năm. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại cơ sở tập trung.

    Nếu không đủ sức khỏe để làm việc thì phải đến hội đồng giám định y khoa để giám định sức khỏe để nghỉ theo chế độ bảo hiểm xã hội. Trên đây là một số quy định cụ thể, bạn nghiên cứu vận dụng.

    Theo quy định của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội thì thời gian hưởng chế độ ốm đau được quy định như sau:

      • Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hằng tuần, được quy định: Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên.
      • Người lao động mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành thì được hưởng chế độ ốm đau như sau: Tối đa không quá 180 ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hằng tuần. Hết thời hạn trên mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn.
      • Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
      • Người lao động hưởng tiếp chế độ ốm đau thì mức hưởng được quy định: Bằng 65% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 30 năm trở lên; bằng 55% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; bằng 45% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm.
      • Người lao động sau thời gian hưởng chế độ ốm đau mà sức khoẻ còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 5 ngày đến 10 ngày trong một năm. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại cơ sở tập trung.
      • Người lao động sau thời gian hưởng chế độ ốm đau mà sức khoẻ còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 5 ngày đến 10 ngày trong một năm. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại cơ sở tập trung.
    • Nếu không đủ sức khỏe để làm việc thì phải đến hội đồng giám định y khoa để giám định sức khỏe để nghỉ theo chế độ bảo hiểm xã hội. Trên đây là một số quy định cụ thể, bạn nghiên cứu vận dụng.
  • Từ 1-11, giảm nhiều thủ tục hành chính rườm rà về BHXH

    Từ 1-11, giảm nhiều thủ tục hành chính rườm rà về BHXH

    BHXH Việt Nam vừa ban hành Quyết định số 1018/QĐ-BHXH sửa đổi một số nội dung tại các quyết định ban hành quy định quản lý thu, chi BHXH, BHYT.

    Theo đó, từ ngày 1-11, nhiều thủ tục hành chính rườm ra, gây khó khăn cho người dân và các doanh nghiệp sẽ được bãi bỏ.

    Cụ thể, ngoài việc bãi bỏ một loạt quy định về hồ sơ, tờ khai, quyết định bãi bỏ Giấy đề nghị truy lĩnh số tiền chưa nhận (mẫu số 17-CBH) trong trường hợp người hưởng mới hoặc tỉnh khác đến có những tháng chưa nhận lương hưu, trợ cấp BHXH.

    Bỏ Giấy đề nghị tiếp tục hưởng BHXH hàng tháng (mẫu số 19-CBH) trong trường hợp người hưởng lương hưu, trợ cấp qua tài khoản cá nhân đến ký xác nhận ngay tháng sau liền kề của kỳ xác nhận.

    Quyết định nêu rõ: tài khoản ATM và tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng thương mại của Việt Nam được hiểu là tài khoản cá nhân. Bản chụp là bản sao từ bản chính không có chứng thực. Người dân có thể nộp hồ sơ về BHXH kèm theo bản chính để cán bộ tự đối chiếu mà không cần chứng thực.

    Đối với các loại hồ sơ để giải quyết BHXH, người dân chỉ phải nộp một bộ hồ sơ cho cơ quan BHXH.

    Nghiêm cấm việc tự ban hành thêm thủ tục hành chính; thực hiện công khai Bộ thủ tục hành chính trên phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin của Ngành và Bộ phận một cửa của cơ quan BHXH cấp tỉnh, huyện để tổ chức, cá nhân đến giao dịch biết và thực hiện.

    Giám đốc BHXH tỉnh, huyện cử cán bộ thuộc Bộ phận một cửa nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại đơn vị sử dụng lao động. Trường hợp không bố trí được cán bộ thì ký hợp đồng với các đơn vị dịch vụ bưu điện để thực hiện.

    Xem nội dung văn bản tại đây

  • Lương hưu sẽ giảm 10%

    Lương hưu sẽ giảm 10%

    Theo đề xuất của cơ quan soạn thảo là Bộ LĐ-TB-XH, dự án đưa ra 2 công thức tính lương hưu.

     

    giam-luong-huu-10

    Theo đề xuất của cơ quan soạn thảo là Bộ LĐ-TB-XH, dự án đưa ra 2 công thức tính lương hưu.

    Ban soạn thảo dự án Luật Bảo hiểm Xã hội sửa đổi đưa ra 2 cách tính đều có “mẫu số” chung là lương hưu sẽ giảm ít nhất 10%

    Ngày 26-9, tiếp tục phiên họp toàn thể, Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội (Ủy ban) đã cho ý kiến về Luật BHXH sửa đổi (dự án).

    giam-luong-huu-10

    Nam, nữ nghỉ hưu đều thiệt

    Theo đề xuất của cơ quan soạn thảo là Bộ LĐ-TB-XH, dự án đưa ra 2 công thức tính lương hưu.

    Phương án 1: Điều chỉnh tỉ lệ hưởng lương hưu hằng tháng theo lộ trình, từ năm 2018, lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% bình quân tiền lương tháng đóng BHXH, tương ứng với 15 năm đóng của lao động nữ và 20 năm của lao động nam. Sau đó, cứ thêm mỗi năm được tính thêm 2%, tối đa bằng 75%.

    Phương án 2: Số năm đóng BHXH tương ứng với 45% bình quân tiền lương tháng để tính lương hưu cho người nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm; mỗi năm sau tăng thêm một năm và từ 2022 trở đi là 20 năm. Sau đó, cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% với nam và 3% với nữ, tối đa bằng 75%.

    Chủ nhiệm Ủy ban Trương Thị Mai cho biết Thường trực Ủy ban tán thành với phương án 1. Tuy nhiên, trong điều kiện tuổi nghỉ hưu thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động thì cần phải tính toán để giảm thiểu tác động bất lợi đối với người nghỉ hưu, nhất là nữ.

    Đại biểu Quốc hội Đặng Thị Kim Chi (Phú Yên) cho rằng với cả 2 phương án thì cả nam và nữ đều thiệt khi nghỉ hưu. Bởi, tính theo phương án 1 thì người lao động 30 năm khi nghỉ hưu được hưởng 65%. Theo quy định hiện hành, nam và nữ với 30 năm công tác đều được hưởng 75%. Vì vậy, nếu áp dụng phương án 1 và nghỉ hưu từ ngày 1-1-2018 thì lương hưu sẽ giảm 10% so với cách tính hiện nay; nếu theo phương án 2, đến năm 2018 mức hưởng của nam và nữ là 73%; năm 2022 mức hưởng của nam là 65% và nữ là khoảng 60%- 61%.

    Tán đồng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Bùi Sỹ Lợi nói: “Tính cách nào thì người lao động cũng bị giảm lương hưu, nhất là nữ, vì nữ không được điều chỉnh tuổi hưu lên 60”. Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH Phạm Minh Huân thừa nhận với 2 công thức tính lương hưu được đề xuất thì kiểu gì mức hưởng cũng giảm. Vì vậy, để tránh giảm “sốc” thì phải thay đổi tỉ lệ tích lũy.

    O bế công chức, thiệt tư nhân

    Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Văn Tiên nói thẳng: “Có sự bất bình đẳng trong cách tính hiện nay về mức hưởng lương hưu giữa lao động ở khu vực nhà nước và tư nhân. Luật đặt vấn đề bảo vệ người làm công ăn lương của nhà nước nhiều quá”.

    Cùng quan điểm, ông Lợi phân tích người lao động ở khu vực tư nhân tiền lương đóng rất cao với thu nhập bình quân từ 5-10 triệu đồng/tháng nhưng về hưu thì lương thấp vì phải chia bình quân cho cả quá trình.

    Đại diện cơ quan soạn thảo cho hay sở dĩ có sự bất bình đẳng về lương hưu giữa khối nhà nước và tư nhân là do những chính sách hiện hành. Hiện chưa có người về hưu ở khu vực tư nhân nên chưa thấy rõ chênh lệch lớn về mức hưởng lương hưu giữa 2 khu vực này. Còn theo lộ trình, phải đến năm 2045 mới có được sự bình đẳng về cách tính tiền lương bình quân làm cơ sở tính lương hưu BHXH cả 2 khu vực.

    Để tạo sự công bằng, ông Lợi đề nghị phần chênh về mức hưởng lương hưu của khu vực công, lực lượng vũ trang thì ngân sách phải bù chứ không được lấy quỹ lương của khu vực sản xuất kinh doanh để bù sang. Ông Tiên nói thẳng: “Nếu cứ o bế lực lượng vũ trang và cán bộ công chức nhà nước mà nhà nước không bỏ tiền thì thật mất công bằng cho người lao động”.

    Chỉ 7% doanh nghiệp báo cáo tai nạn lao động

    Chiều cùng ngày, Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội họp thẩm tra dự án Luật An toàn vệ sinh lao động. Ông Bùi Sỹ Lợi cho biết hiện chỉ có 7% doanh nghiệp báo cáo tai nạn lao động, với tỉ lệ tại nạn lao động chết người bình quân 5,5/100.000 lao động. “Một năm có 600 vụ tai nạn chết người nhưng con số ngành y tế báo cáo gấp 20 lần” – ông Lợi băn khoăn. Còn theo Đại biểu Quốc hội Lê Trọng Sang (TP HCM), thực tế việc khai báo về tai nạn lao động là không đầy đủ. Hầu hết khi có tai nạn chết người dẫn tới phải truy tố, điều tra thì các đơn vị mới báo cáo, nhiều trường hợp sau khi “thỏa thuận” xong thì gia đình đưa nạn nhân về quê mà không có ý kiến gì. Hiện Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp còn kết dư 16.000 tỉ đồng. Lý do vì chưa thực hiện đầy đủ chính sách hỗ trợ, phòng ngừa tai nạn lao động.

    Nguồn: theo báo NLĐ

  • Vợ sinh con, chồng được nghỉ bao nhiêu ngày?

    Vợ sinh con, chồng được nghỉ bao nhiêu ngày?

    Hỏi: Hiện em đang làm nhân viên cho 1 công ty nước ngoài. Vợ em thì làm nội trợ. Sắp tới đầu tháng 11.2014 là vợ em sanh mổ. Cho em được hỏi: – Hiện giờ theo luật lao động thì vợ sinh thì chồng được nghỉ bao nhiêu ngày ? hưởng bao nhiêu phần trăm lương? – Còn về dự thảo vợ sinh chồng được nghỉ 5 – 7 ngày thì đã áp dụng chưa? Vợ em sinh vào khoảng 11.2014 thì có được áp dụng ko? – Nếu đã có luật mới thì em có thể vào website nào để có thể cập nhật thông tin chính xác nhất và hợp lệ nhất? mailto: ……………hien@gmail.com

    Trả lời:

    Theo quy định hiện hành, khi lao động nữ sinh con thì chỉ lao động nữ được nghỉ việc (theo chế độ thai sản), chưa có quy định về lao động nam được nghỉ việc chăm sóc vợ và con. Điều 27, 28 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định:

    “Điều 27. Đối tượng áp dụng chế độ thai sản

    Đối tượng áp dụng chế độ thai sản là người lao động quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Luật này.”

    “Điều 28. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

    1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Lao động nữ mang thai;

    b) Lao động nữ sinh con;

    c) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi;

    d) Người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.

    2. Người lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ sáu tháng trở lên trong thời gian mười hai tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.”

    Như vậy, nam giới có vợ sinh con không thuộc đối tượng được nghỉ thai sản theo quy định của pháp luật hiện hành.

    Vấn đề bạn đang băn khoăn là chính sách được dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) đề cập. Lao động nam đang đóng BHXH khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 5 ngày làm việc, kể từ 30 ngày đầu vợ sinh con. Đối với trường hợp vợ sinh con phải phẫu thuật, lao động nam được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 7 ngày làm việc, không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Theo đó, lao động nam có thời gian tham gia BHXH theo quy định và có vợ sinh con thì được nghỉ thai sản 5 – 7 ngày làm việc.

    Tuy nhiên, hiện nay Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) chưa được thông qua. Vì thế chưa có căn cứ để áp dụng quy định này.

    Luật sư Phạm Thị Bích Hảo

    (Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, HN)

    Theo laodong.com.vn

  • Quy định mới về áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT

    Quy định mới về áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT

    Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 119/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số quy định trước đây để cải cách, đơn giản các TTHC về thuế. Đồng thời, Tổng cục Thuế đã có Công văn 3609/TCT-CS để hướng dẫn các điểm mới của Thông tư này, theo đó:

    – Bỏ mức khống chế 1 tỷ đồng về tài sản cố định, máy móc, thiết bị… đầu tư, mua sắm của doanh nghiệp, hợp tác xã mới thành lập để đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT.

    – Đối với DN mới thành lập đạt mức doanh thu dưới 01 tỷ đồng trong năm đầu nhưng vẫn thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật thì được đăng ký tự nguyện tiếp tục áp dụng phương pháp khấu trừ.

    Thay thế các hướng dẫn, mẫu biểu tại các Thông tư 156/2013/TT-BTC, 111/2013/TT-BTC, 219/2013/TT-BTC, 08/2013/TT-BTC, 85/2011/TT-BTC, 39/2014/TT-BTC và 78/2014/TT-BTC. Các nội dung trên có hiệu lực từ ngày 01/9/2014.

    Ngoài ra, để tạo thuận lợi cho công tác thực hiện Thông tư 119, Tổng cục Thuế hướng dẫn các Cục thuế bằng Công văn 3619/TCT-CS bố trí công chức nắm vững nội dung Thông tư 119 để trả lời thắc mắc, vướng mắc của Doanh nghiệp qua số điện thoại công khai và đường dây nóng.

    Ưu đãi Thuế cho khu Kinh tế cửa khẩu từ 01/10/2014

    Từ 01/10/2014, Các khu Kinh tế cửa khẩu sẽ nhận được nhiều ưu đãi, đặc biệt về Thuế khi Thông tư 109/2014/TT-BTC có hiệu lực

    – Người Việt Nam và người nước ngoài trực tiếp làm việc, sản xuất kinh doanh tại khu KTCK, có thu nhập từ việc làm, sản xuất kinh doanh tại khu KTCK thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định được giảm 50% số thuế phải nộp

    – Không tính thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu từ nước ngoài vào KTCK (trừ một số ngoại lệ theo quy định)

    – Miễn thuế nhập khẩu, miễn hoặc không tính thuế xuất khẩu đối với máy móc, thiết bị, hàng hóa, dịch vụ đáp ứng quy định của Thông tư.

    Giảm thuế xuất khẩu cao su xuồng còn 0%

    Nhằm hỗ trợ ngành cao su tháo gỡ khó khăn, mới đây, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 111/2014/TT-BTC sửa đổi mức thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng cao su thuộc nhóm 40.01, 40.02, 40.05 quy định tại Biểu thuế xuất khẩu ban hành kèm theo Thông tư 164/2013/TT-BTC.

    Thuế suất các mặt hàng này theo quy định trước đây là 1%. Bắt đầu từ ngày 02/10/2014 sẽ áp dụng mức thuế suất mới là 0%. Danh mục chi tiết được ban hành kèm theo Thông tư 111.

    Giải pháp Thuế tháo gỡ khó khăn cho Doanh nghiệp

    Ngày 25/8/2014 Chính phủ đã có Nghị quyết 63/NQ-CP về một số giải pháp thuế nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp với các nội dung nổi bật sau:

    – Xóa nợ tiền phạt chậm nộp thuế phát sinh trước ngày 01/7/2013 của doanh nghiệp gặp khó khăn khách quan và đã nộp khoản nợ thuế gốc trước ngày 31/12/2014.

    – Bỏ mức khống chế 15% đối với một số chi phí được trừ theo quy định tại điểm m khoản 2 Điều 9 Luật thuế TNDN (sửa đổi 2013)

    – DN được tính vào chi phí được trừ đối với khoản chi có tính chất phúc lợi chi trực tiếp cho NLĐ mà có hóa đơn, chứng từ; tổng số chi không quá 1 tháng lương bình quân thực tế.

    – Miễn thuế, giảm thuế hoặc không thu thuế đối với phần thu nhập của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài khi chuyển về nước.

    Ngoài các chính sách Thuế mới nêu trên, những quy định mới về lĩnh vực Lao động, Giáo dục cũng rất đáng chú ý như:

    Giải quyết vướng mắc chế độ thai sản

    Ngày 19/8/2014, Bảo hiểm xã hội VN đã ban hành Công văn 2998/BHXH-CSXH phổ biến đến BHXH các tỉnh, TP Công văn 2354/LĐTBXH-BHXH hướng dẫn giải quyết vướng mắc chế độ thai sản và tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp, cụ thể:

    – Lao động nữ sinh đôi trở lên ngoài thời gian nghỉ 06 tháng, cứ mỗi con tính từ con thứ 02 người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng dù khi sinh có con bị chết. Nếu tất cả các con khi sinh ra bị chết thì áp dụng theo Khoản 2 Điều 31 Luật BHXH tính theo trường hợp con chết sau cùng.

    – Người lao động bị tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp nhiều lần khi giám định có tỷ lệ suy giảm khả năng LĐ dưới 5% thì việc giải quyết trợ cấp được tính dựa trên mức suy giảm sau khi giám định tổng hợp.

    Ban hành Danh mục đào tạo nghề mới

    Ngày 26/8/2014, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Bảng Danh mục đào tạo nghề trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề mới, cụ thể:

    – Thông tư 21/2014/TT-BLĐTBXH kèm theo Danh mục đào tạo nghề trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề thay thế cho Danh mục kèm theo Thông tư 17/2010/TT-BLĐTBXH và 11/2012/TT-LĐTBXH.

    – Thông tư 20/2014/TT-BLĐTBXH kèm theo Danh mục nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề nhằm thực hiện chế độ miễn, giảm, hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định 49/2010/NĐ-CP.

    Các Danh mục trên sẽ được áp dụng từ ngày 10/10/2014.

    Ngày 25/8/2014, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 119/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số quy định trước đây nhằm cải cách, đơn giản các TTHC về thuế. Theo đó:

    DN mới thành lập có đầu tư mua sắm TSCĐ thì được áp dụng phương pháp tính thuế khấu trừ, không phân biệt mức đầu tư trên hay dưới 01 tỷ đồng như trước.
    Đối với DN mới thành lập đạt mức doanh thu dưới 01 tỷ đồng trong năm đầu nhưng vẫn thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật thì được đăng ký tự nguyện tiếp tục áp dụng phương pháp khấu trừ.
    DN được áp dụng ổn định phương pháp tính thuế này trong 2 năm liên tục tiếp theo tính từ năm DL đầu tiên từ khi thành lập.

    Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/9/2014 và sửa đổi, bổ sung các Thông tư 156/2013/TT-BTC, 111/2013/TT-BTC, 219/2013/TT-BTC, 08/2013/TT-BTC, 85/2011/TT-BTC, 39/2014/TT-BTC, 78/2014/TT-BTC.


  • Tăng lương tối thiểu: Cao nhất 3,1 triệu, thấp nhất 2,2 triệu

    Tăng lương tối thiểu: Cao nhất 3,1 triệu, thấp nhất 2,2 triệu

    Hôm nay (6/8), Hội đồng Tiền lương quốc gia đã họp bàn, thảo luận và đi đến thống nhất về mức lương tối thiểu vùng năm 2015.

    Theo đó, Hội đồng tiền lương Quốc gia đã bỏ phiếu và đi đến thống nhất đưa ra mức lương tối thiểu cho từng vùng như sau:

    Vùng 1 là 3.100.000 đồng

    Vùng 2 là 2.750.000 đồng

    Vùng 3 là 2.420.000 đồng

    Vùng 4 là 2.2.000 đồng

    Trước đó, tại phiên họp Hội đồng Lương quốc gia cuối tháng 7 vừa qua, đã có 3 mức lương tối thiểu vùng năm 2015 được đưa ra với mức chênh lệch khá lớn.

    Đại diện Tổ chức sử dụng người lao động (Phòng Thương mại Công ngiệp Việt Nam VCCI) đề xuất mức lương tối thiểu vùng 1, áp dụng từ năm 2015 là: 3.000.000 đồng/người/tháng.

    Đại diện Bộ Lao động Thương binh & xã hội đưa ra mức 3.050.000 đồng/người/tháng.

    Tổng LĐLĐ VN đưa ra mức lương tăng 3,4 triệu đồng/người/tháng.

    tang-luong-toi-thieu-2014

    Tăng lương tối thiểu: Cao nhất 3,1 triệu, thấp nhất 2,2 triệu

    Thực tế cho thấy mức lương tối thiểu hiện nay không thể đảm bảo được mức sống tối thiểu của người lao động.

    Lý giải mức lương 3,4 đồng/người/tháng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Đặng Ngọc Tùng cho biết: “Để đạt mục tiêu của hiện tại, mức lương tối thiểu vùng năm 2014 đang áp dụng là 2,7 triệu đồng đối với vùng 1 và 1,9 triệu đồng ở vùng 2. Mức lương này vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động”.

    Tổng liên đoàn Lao động đề nghị cần phải tăng lương tối thiểu vùng 1 năm 2015 lên mức 3,4 triệu đồng/người/tháng, tăng gần 26% so với mức lương tối thiểu cũ.

    So với mức đề xuất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thì mức đề nghị của đại diện người sử dụng lao động ( Phòng Thương mại Công ngiệp Việt Nam VCCI) và mức đề xuất của đại diện thường trực Hội đồng tiền lương (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) có độ “vênh” khá xa  nên phương án lương tối thiểu vùng 2015 vẫn chưa đi đến thống nhất.

    Chính vì vậy, thống nhất một mức lương tối thiểu phù hợp với điều kiện khách quan và đảm bảo quyền lợi của các bên trong quan hệ lao động, nhất là mức tăng phải đảm bảo cuộc sống của người lao động cũng như duy trì ổn định sản xuất là mục tiêu quan trọng nhất của đợt điều chỉnh lương tối thiểu lần này.

    Điều 91 Bộ luật Lao động 2012 quy định: Mức lương tối thiểu là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.

    Thực tế cho thấy, mức lương tối thiểu ở các vùng như hiện nay là không thể đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Theo lộ trình đặt ra, đến năm 2017, mức lương tối thiểu phải đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động.

    Nguồn ĐỖ VIỆT – doisongphapluat.com

  • Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Không hấp dẫn!

    Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Không hấp dẫn!

    Từ 25/5/2014, ước tính có thêm 20.000 người giúp việc nhà được bổ sung vào quân số những người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) tự nguyện tại TP.HCM. Thế nhưng thực tế, cả triệu người lao động (NLĐ) tự do chẳng mấy ai màng đến việc tự tham gia tích lũy lương hưu cho mình…

    CHƯA HIỂU

    Anh Nguyễn Khắc Đàn, SN 1974, tại Nam Đàn, Nghệ An vào TP.HCM làm nghề tranh đá quý từ năm 1997, mức lương từ 13-15 triệu đồng/tháng, công việc độc hại vì thường xuyên tiếp xúc với bụi đá và hóa chất. Sau 17 năm gắn bó với nghề, anh cho biết sức khỏe đã bị ảnh hưởng và điều lo lắng nhất của anh là không có chế độ hưu nên không biết tính toán tương lai của mình thế nào. Hỏi vì sao không tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện để có các chế độ y tế, hưu trí, anh nói: “Tôi chẳng biết gì, nếu được tự đóng thì hay quá, nhưng giờ tôi làm cách nào đây?”…

    Cũng mù tịt thông tin về việc có thể tự đóng BHXH, “điền khuyết” vào bảy năm còn thiếu để được hưởng lương hưu, bà Nguyễn Thị Hoàng Mai, SN 1950, hướng dẫn viên du lịch, ngụ 416 Ngô Gia Tự, Q.10, TP.HCM tiếc rẻ: “Năm 2005, Luật BHXH ra đời, quy định cho những người như chúng tôi được đóng BHXH tự nguyện, vậy mà tôi chẳng biết gì. Cách đây vài tháng, cháu tôi mới ngồi tính, giờ tôi đã 64 tuổi rồi, quá trễ để tham gia”.

    Thực tế cho thấy, dù luật đã có hiệu lực từ lâu nhưng rất nhiều NLĐ tự do hoặc những người từng tham gia BHXH mà bị khuyết mất vài năm, vẫn không nắm được thông tin. Đa phần đó là những NLĐ dịch vụ, LĐ chân tay ở các cơ sở, công ty nhỏ, thậm chí cả những người là chủ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nhỏ.

    Theo điều 68 Luật BHXH, những NLĐ từng đóng BHXH bắt buộc, sau đó tiếp tục đóng BHXH tự nguyện, sẽ được gộp hai khoản thời gian trên để làm cơ sở tính hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất về sau. Điều 100 của luật này quy định: NLĐ tự do có thể đăng ký BHXH tự nguyện bằng cách mỗi tháng đóng 22% thu nhập tự chọn, liên tục 240 tháng cho đến 55 tuổi (đối với nữ) và 60 tuổi (đối với nam). Việc đóng BHXH có thể linh hoạt theo hàng tháng, quý hoặc sáu tháng một lần, tùy lựa chọn của NLĐ. Tuy nhiên, nhiều năm qua, chỉ có khoảng 10.000 trong tổng số hàng triệu LĐ tự do tại TP.HCM tham gia, trong đó đa phần là những người gần đến tuổi hưu, hoặc đã nghỉ hưu nhưng khuyết vài năm tham gia BHXH. Với hàng triệu LĐ còn lại, BHXH là thứ họ vẫn chưa thấu hiểu nên không thể “chạm” tới.

    14-1Anh Nguyễn Khắc Đàn: Tôi chẳng biết gì về bảo hiểm xã hội tự nguyện

    KHÔNG HẤP DẪN BẰNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ

    Khi được hỏi vì sao không tham gia đóng BHXH khi thu nhập hơn 10 triệu đồng tháng, chị Bùi Thị Thủy, 33 tuổi, ngụ P.3, Q.Gò Vấp nói: “Thu nhập là vậy, nhưng chi ra cũng rất nhiều, nếu tôi kê khai thu nhập 10 triệu đồng, phải trích 22% ra đóng, tức mỗi tháng đến 2,2 triệu đồng, tiền đâu mà đóng nổi”.

    Chị Nguyễn Mai Châu, chủ vựa trái cây trên đường Lê Đức Thọ, P.17, Q.Gò Vấp, chia sẻ: “Mỗi tháng tôi kiếm được 24-25 triệu đồng từ vựa trái cây này, nhưng cả nhà bốn người phải nhào vô làm. Tham gia BHXH thì cũng hay, nhưng làm sao kham nổi khi hàng tháng mỗi người phải đóng khoảng 1,3 triệu đồng”.

    Chị so sánh: “Con gái tôi làm công nhân, lương tăng ca sáu triệu đồng/tháng mà chỉ bị trừ có 8% để đóng BHXH, có hết các chế độ. NLĐ tự do bắt buộc đóng đến 22% thì quá thiệt thòi!”. Chị Nguyễn Thị Lụa, 45 tuổi, ngụ tại P.Tân Thới Nhất, Q.12 cho biết: “Nếu buộc đóng 22% thu nhập tự chọn để sau này hưởng 55% theo thu nhập đó tôi thấy cách tính của mấy công ty BH nhân thọ lợi hơn nhiều, làm sao BHXH cạnh tranh nổi?”.

    Quả thực, về khoản bảo hiểm hưu trí, các công ty BH nhân thọ cho NLĐ hưởng nhiều quyền lợi hơn hẳn BHXH Việt Nam. Ngoài việc đóng chi phí thấp hơn, mức hưởng cao hơn, các công ty BH nhân thọ còn có các chính sách ưu đãi về miễn giảm thuế thu nhập cá nhân cho người nhận lương hưu một lần và hàng loạt các sản phẩm bổ trợ kèm theo. Bên cạnh đó, khách hàng còn được bảo vệ tài chính trước các rủi ro trong cuộc sống như tử vong hoặc thương tật vĩnh viễn.

    Theo ông Cao Văn Sang – Giám đốc BHXH TP.HCM, để NLĐ tự trích thu nhập của mình tham gia một cách thường xuyên, đều đặn suốt 240 tháng là điều không hề dễ dàng.

    Ông Sang nói: “Tuổi thọ bình quân của người Việt là 72,8 năm, nghĩa là khi tham gia đóng BHXH, người ta sẽ được hưởng lương hưu từ 10 đến 12 năm nữa nếu là nam, và thời gian thụ hưởng sẽ dài hơn một ít nếu là nữ, nhưng mức đóng 22% là quá cao. Mới đây, cấp trên của ngành đã hỏi tôi “liệu sẽ thu hút được bao nhiêu phần trăm trong tổng số 20.000 LĐ giúp việc nhà ở TP.HCM tham gia BHXH?”, tôi đã trả lời ngay là “không được người nào cả!”. Kênh BHXH tự nguyện nếu cứ duy trì cách làm như hiện nay thì đừng kỳ vọng sẽ tăng lên được. Chỉ hy vọng tăng ở nhóm những người gần đến tuổi hưu đóng bổ sung, đừng tính đến những đối tượng mới như người giúp việc gia đình, LĐ tự do, hoặc những người kinh doanh cá thể…”.

    Tiếc cho một “mảnh đất vàng” đã bị khai thác và sử dụng không hiệu quả.

    Theo NGHI ANH – phunuonline

  • TPHCM: không gia hạn giấy phép lao động cho người nước ngoài

    TPHCM: không gia hạn giấy phép lao động cho người nước ngoài

    TPHCM sẽ không gia hạn giấy phép lao động cho người nước ngoài khi hết hạn, theo thông báo của Sở Lao động thương binh và xã hội vừa gởi đến các doanh nghiệp đóng trên địa bàn.

    laodongnuocngoai

    Thông báo của Sở Lao động thương binh và xã hội TPHCM

    Sở Lao động thương binh và xã hội TPHCM vừa có thông báo số 6107 gởi đến các doanh nghiệp, hướng dẫn thi hành Nghị định 102 (2013) về việc cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp.

    Theo đó, các giấy phép lao động đã được cấp theo quy định của Nghị định 34 (2008) và Nghị định 46 (2011) của Chính phủ (trước ngày 1-11-2013 – ngày Nghị định 102 có hiệu lực) hết hạn thì doanh nghiệp phải đề nghị Sở Lao động thương binh và xã hội TPHCM cấp giấy phép lao động theo trình tự thủ tục cấp mới chứ không được gia hạn như trước nữa.

    Cụ thể, lao động nước ngoài có giấy phép lao động hết hạn, để được tiếp tục làm việc tại Việt Nam, phải cung cấp các loại giấy tờ như: giấy chứng nhận trình độ, kinh nghiệm của người nước ngoài; lý lịch tư pháp của người nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp cho thời gian người lao động ở nước ngoài; lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cấp cho thời gian đã lưu trú ở Việt Nam; giấy khám sức khoẻ…

    Với quy định mới này, hàng loạt doanh nghiệp và hàng ngàn người lao động nước ngoài đang đứng trước nguy cơ phải làm lại toàn bộ hồ sơ để được tiếp tục lao động tại Việt Nam khi giấy phép lao động đã được cấp trước ngày 1-11-2013 hết hạn.

    Điều đáng nói là, theo một chuyên viên của chính Sở Lao động thương binh và xã hội TPHCM, quy định mới này không những không có ý nghĩa về mặt quản lý Nhà nước mà còn gây nhiều phiền phức cho doanh nghiệp và lao động nước ngoài đang làm việc ổn định tại TPHCM.

    Đơn cử về yêu cầu phải cung cấp lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp, khi nộp hồ sơ theo hình thức cấp mới, người nước ngoài phải liên hệ với cơ quan có thẩm quyền của nước họ để được cấp lại vì theo quy định khi nộp hồ sơ, lý lịch tư pháp phải không được quá 6 tháng kể từ ngày cấp.

    Hơn nữa, đối với một số quốc gia, người nước ngoài bị buộc phải quay lại quốc gia nơi họ đã cư trú thì mới được cấp. Điều này chưa kể đến việc lý lịch tư pháp sau khi cấp phải được hợp pháp hoá lãnh sự, đôi khi phải quay về nước ngoài để làm. Rất mất thời gian…

    Trong khi đó, với lý lịch tư pháp, người nước ngoài sau khi đã được cấp giấy phép lao động trước thời điểm 1-11-2013 nay vẫn tiếp tục làm việc thì trong suốt thời gian này, họ cư trú chủ yếu ở Việt Nam. Do vậy lý lịch tư pháp của người nước ngoài cũng sẽ có kết quả tương tự như lý lịch tư pháp của nước ngoài mà người nước ngoài đã nộp cho Sở Lao động thương binh và xã hội cho lần đề nghị cấp giấy phép lao động trước.

    Luật sư Lê Thành Kính, Trưởng văn phòng luật sư Lê Nguyễn, cho rằng quy định mới của Sở Lao động tương binh và xã hội TPHCM hướng dẫn Nghị định 102 nhưng lại không thể hiện đúng tinh thần của nghị định. Bởi điều 19.3 nghị định này quy định: “Đối với giấy phép lao động đang còn hiệu lực tính đến ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì không phải đổi giấy phép lao động mới”.

    Thực tế, khác với Sở Lao động thương binh và xã hội TPHCM, Sở Lao động thương binh và xã hội Đồng Nai, Bình Dương… vẫn gia hạn giấy phép lao động cho lao động nước ngoài bình thường khi hết hạn.

    Theo thesaigontimes

  • Con dấu chỉ dùng được trong 5 năm?

    Con dấu chỉ dùng được trong 5 năm?

    Nhiều doanh nghiệp đang băn khoăn bởi một thông tin được bàn tán sôi nổi trong cộng đồng kinh doanh: đó là quy định doanh nghiệp phải khắc lại con dấu sau mỗi 5 năm, dù con dấu còn mới. Thực chất quy định là thế nào, có đúng như nhiều người hiểu hay không?

    Thông tin này xuất phát từ một thông tư của Bộ Công an, trong đó ghi rõ: “Con dấu của các cơ quan, tổ chức sử dụng trong thời hạn 05 (năm) năm kể từ ngày con dấu có giá trị sử dụng được ghi trên Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu do cơ quan Công an có thẩm quyền cấp. Hết thời hạn trên, cơ quan, tổ chức sử dụng con dấu phải đăng ký lại mẫu dấu tại cơ quan Công an nơi cấp Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu”.

    dc619_con_dau2Hình min họa

    Đây là quy định tại Điều 14 (Thời hạn sử dụng con dấu) của Thông tư 21/2012/TT-BCA. Nội dung chính của Thông tư này là quy định 57 mẫu con dấu cho các tổ chức, cơ quan, kể cả các doanh nghiệp. Chẳng hạn, doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư hay Luật Chứng khoán sẽ có nội dung khắc trên con dấu khác nhau.

    Như vậy vấn đề chưa phải là con dấu của doanh nghiệp phải làm lại sau mỗi 5 năm hay không mà vấn đề là đa số doanh nghiệp phải làm lại con dấu của mình theo mẫu mới, ngoại trừ những doanh nghiệp đã đăng ký và khắc con dấu từ ngày 15-3-2013 trở đi. Điều này có thể ảnh hưởng đến cả trăm ngàn doanh nghiệp đang hoạt động.

    “Mức phạt là từ 2.000.000 đồng – 3.000.000 đồng nếu không khắc lại con dấu theo mẫu quy định (Điểm e, Khoản 2, Điều 12 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013),  và không khắc lại dấu khi có quyết định của cấp có thẩm quyền về việc đổi tên cơ quan, tổ chức dùng dấu hoặc đổi tên cơ quan cấp trên hoặc thay đổi về trụ sở cơ quan, tổ chức có liên quan đến mẫu dấu (Điểm đ, Khoản 2, Điều 12 Nghị định 167/2013)

    Thông tư 21 có hiệu lực từ ngày 6-6-2012. Tuy nhiên, đến gần cuối năm 2013, nghị định 167 về mức xử phạt mới có hiệu lực.

    Theo thông tin trên cổng thông tin điện tử Công an TPHCM, từ quí 2-2014, Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về Trật tự xã hội – CATP (PC64) tổ chức kiểm tra, rà soát và đổi con dấu cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức kinh tế do địa phương cấp phép đăng ký, cơ quan tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của địa phương, cơ quan tổ chức thuộc địa phương hoạt động ở nước ngoài (theo từng quận, huyện).

    Ngoài ra, theo công an TPHCM, tất cả những con dấu đã khắc mới và đổi từ ngày 15-3-2013 trở đi không phải đổi theo Thông tư 21/2012/TT-BCA. Và, mẫu con dấu của một số cơ quan cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh tại thông tư này, như mẫu con dấu các cơ quan, tổ chức thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổ chức tôn giáo, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Ban chỉ huy Quân sự các cấp, và các cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.

    Vấn đề thứ nhì là sau khi có con dấu được làm theo mẫu mới, cứ sau mỗi 5 năm, doanh nghiệp phải đi đăng ký lại mẫu dấu.

    Theo hướng dẫn được nhân viên tại Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về Trật tự xã hội – CATP (PC64) (tại địa chỉ số 459 Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho, Q.1, TPHCM) cho biết hôm 17-6, khi đăng ký lại mẫu dấu sau 5 năm sử dụng, tùy tình trạng của con dấu, doanh nghiệp sẽ được yêu cầu khắc lại dấu, hoặc chỉ cần đổi giấy chứng nhận mẫu dấu với thời hạn sử dụng mới.

    Như vậy không có chuyện con dấu của doanh nghiệp chỉ có giá trị sử dụng trong 5 năm mà: 1/đa số doanh nghiệp phải làm lại con dấu theo mẫu mới; 2/sau mỗi 5 năm phải đăng ký lại mẫu dấu.

    Mức phạt là từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với trường hợp không đăng ký lại mẫu dấu (điểm b, Khoản 1 Điều 12 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013).

    Ngoài ra, trong thời hạn 5 năm, con dấu của các cơ quan, tổ chức bị mòn, méo, biến dạng, hỏng, mất hoặc có thay đổi tên, trụ sở, mô hình tổ chức thì cơ quan, tổ chức có văn bản đề nghị cơ quan Công an có thẩm quyền làm thủ tục đổi, cấp lại con dấu.

    Tại TPHCM, phòng PC64 không trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký mẫu dấu tròn đối với đơn vị kinh tế, mà việc này do 21 công ty khắc dấu thực hiện. Tên của 21 công ty này được nêu trong bảng hướng dẫn đặt trước phòng PC64. Tại đây, cũng có nhân viên một số công ty khắc dấu (có tên trong bảng trên) đến hỏi thăm và hướng dẫn thủ tục cho người đăng ký làm lại mẫu dấu mới.

    Chi phí khắc dấu mới là 400.000 đồng (tính thêm 10% thuế VAT nếu doanh nghiệp muốn xuất hóa đơn), và thêm phí 50.000 đồng cho giấy chứng nhận mẫu dấu mới. Sau khi hoàn tất hồ sơ, hai ngày sau, doanh nghiệp sẽ đến phòng PC64 nhận con dấu mới.

    Hiện trên trang web của một số văn phòng luật sư cũng có nhận làm thủ tục để đăng ký lại mẫu dấu cho doanh nghiệp, với mức phí khoảng 550.000 đồng, chưa tính phí khắc dấu mới cũng như giấy chứng nhận mẫu dấu.

    Theo thesaigontimes

  • Quyền của người lao động bị tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp

    Quyền của người lao động bị tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp

    Bạn đọc Nguyễn Hà ở huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết, quyền của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được pháp luật quy định như thế nào?
    Trả lời: Theo Điều 145, Bộ luật Lao động, quyền của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định như sau:
    Một là, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

    quyen_nguoilaodong

    Hình minh họa

    Hai là, người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà người sử dụng lao động chưa đóng bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội, thì được người sử dụng lao động trả khoản tiền tương ứng với chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên.
    Ba là, người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau: Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%. Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động.
    Bốn là, trường hợp do lỗi của người lao động thì người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 3 Điều này.

  • Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi: Phú quý giật lùi?

    Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi: Phú quý giật lùi?

    Đã được trình Quốc hội nhiều lần, nhưng tại Kỳ họp lần thứ bảy này, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) sửa đổi tiếp tục nhận được những ý kiến phản đối mạnh mẽ của đại biểu Quốc hội.

    “Sửa đổi Luật BHXH là điều cần thiết, vì đây là điều luật quan trọng, bảo đảm an sinh xã hội của hàng triệu lao động. Tuy nhiên, xã hội đi lên, mà chính sách xã hội lại đi xuống, càng sửa càng giảm quyền lợi của người lao động là không được. Không ai làm chính sách xã hội kiểu phú quý giật lùi như vậy”, đại biểu Ngô Ngọc Bích thẳng thắn.
    luat-bh
         Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) sửa đổi tiếp tục nhận được những ý kiến phản đối mạnh mẽ của đại biểu Quốc hội    
    Các điều khoản sửa đổi khiến đại biểu bức xúc nhất là đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu và giảm phần trăm lương hưu của người lao động, với lý do để chống vỡ quỹ BHXH, đi ngược lại với các quy định của Bộ luật Lao động hiện hành.

    Theo đó, từ năm 2016 trở đi, điều kiện tuổi đời hưởng lương hưu của lao động là cán bộ, công chức, viên chức, cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng tuổi cho đến khi đạt 60 tuổi đối với nữ và 62 tuổi đối với nam và từ năm 2020 trở đi, các lao động khác cũng áp dụng quy định này.

    Bên cạnh đó, từ ngày 1/1/2018, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp và các khoản bổ sung khác ghi trên hợp đồng lao động, tức là gây thêm thiệt thòi cho người lao động, nếu so với quy định trong Bộ luật Lao động hiện hành.

    Chưa hết, theo Luật BHXH sửa đổi, từ năm 2016, để được hưởng 45% mức lương bình quân đóng BHXH khi nghỉ hưu, người lao động phải có đủ 16 năm đóng BHXH và tăng lên mỗi năm để đến năm 2020 phải có đủ 20 năm đóng BHXH. Ngoài ra, mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi sẽ bị trừ 2%, thay vì 1% lương hưu như hiện nay.

    Theo đại biểu Trương Văn Vở, vỡ quỹ BHXH hay không là do quản lý, chứ không phải do người đóng. Cách tính này là không đúng, khi chi phí cho đội ngũ làm bảo hiểm quá lớn, trong khi mới có hơn 10 triệu lao động trong tổng số 18 triệu lao động thuộc diện bắt buộc tham gia đóng BHXH.

    Ông Vở cho biết, theo khảo sát, tiền lương đóng BHXH hiện chỉ bằng 66% mức lương thực lĩnh. Tình trạng nợ đọng BHXH cũng đã thành “đại dịch” khi lên tới hơn 10.000 tỷ đồng…

    “Vì vậy, lý do vỡ quỹ để sửa luật là không phù hợp, việc nâng tuổi cũng không phù hợp”, ông Trương Văn Vở phản bác và cho rằng, Luật phải xây dựng để khắc phục tình trạng nợ đọng bảo hiểm hiện nay, bởi gốc rễ vấn đề là nhiều doanh nghiệp không đóng BHXH, chứ không liên quan đến độ tuổi nghỉ hưu.

    “Tại sao thế giới đang phấn đấu giảm tuổi nghỉ hưu, trong khi ta lại đề xuất tăng?”, đại biểu Hồ Trọng Ngũ đặt câu hỏi và cho rằng, phần đông lao động chân tay chỉ muốn rút ngắn tuổi hưu, càng sớm càng tốt, vì thế, cần theo nguyên tắc đóng tự nguyện và có sự linh hoạt. Song song với đó, cần tối ưu hóa quỹ BHXH, đồng thời quản lý chặt chi tiêu.

    Góp ý cho Luật BHXH sửa đổi, ngoài lý do “luật con” không thống nhất với “luật mẹ”, đại biểu Phùng Đức Tiến cũng không đồng tình với việc nâng tuổi hưu, vì tuổi thọ tăng không đồng nghĩa với việc sức khỏe người Việt Nam được cải thiện đủ để kéo dài thời gian lao động, ngay cả với lao động trí óc trong nhiều lĩnh vực. Đó là chưa kể, hàng năm, cả nước có trên 1 triệu người bước vào tuổi lao động, trong số đó nhiều người có trình độ cao, được đào tạo tốt, nhưng không có việc làm. Như vậy, tăng tuổi hưu sẽ làm tăng gánh nặng lên vấn đề giải quyết việc làm, cung – cầu lao động.

    Theo Phan Long -Bao dau tu

  • Những điểm mới hóa đơn theo thông tư 39/2014/TT-BTC

    Những điểm mới hóa đơn theo thông tư 39/2014/TT-BTC

    Bộ Tài Chính ban hành Thông tư số 39/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP. Thông tư 39/2014/TT-BTC thay thế cho Thông tư 64/2013/TT-BTC về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

    Những điểm mới đáng chú ý về hóa đơn theo thông tư 39/2014/TT-BTC

    Cá nhân không được tạo hóa đơn GTGT

    Quy định tại khoản 2 Điều 3 của Thông tư này đã nêu rõ hóa đơn GTGT là loại hóa đơn dành cho các tổ chức khai, tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (bỏ đối tượng cá nhân ra)

    Do đó, đối tượng được tạo hóa đơn GTGT theo quy định tại chương II thông tư này đã được bỏ phần hộ, cá nhân kinh doanh ra.

    Cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng hóa đơn thì có thể sử dụng hóa đơn bán hàng do Cục Thuế bán (thủ tục mua theo Điều 12) hoặc đặt in

    Bỏ loại hóa đơn xuất khẩu

    Theo quy định tại Điều 3, doanh nghiệp khi xuất khẩu sẽ sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng hoặc hóa đơn bán hàng tùy trường hợp:

    – DN kê khai thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng

    – DN kê khai thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp: sử dụng hóa đơn bán hàng

    – DN trong khu phi thuế quan: sử dụng hóa đơn bán hàng (trên hóa đơn ghi rõ “Dành cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan”)

    Vốn trên 15 tỷ mới được tự in hóa đơn

    Một trong những điều kiện tự in hóa đơn theo quy định tại Điều 6 Thông tư là “Doanh nghiệp, Ngân hàng có mức vốn điều lệ từ 15 tỷ đồng trở lên tính theo số vốn đã thực góp đến thời điểm thông báo phát hành hóa đơn”

    Đối chiếu với các quy định về vốn pháp định của ngân hàng thì rõ ràng các Ngân hàng đã được thành lập thì mặc nhiên đáp ứng điều kiện này.

    Đối với các Doanh nghiệp, thì so với điều kiện trước đây chỉ là vốn điều lệ trên 01 tỷ đồng thì đây là mức thay đổi rất lớn.

    Trường hợp Doanh nghiệp thành lập sau ngày 01/6/2014 có vốn điều lệ dưới 15 tỷ muốn tự in hóa đơn thì phải có “thực hiện đầu tư mua sắm tài sản cố định, máy móc, thiết bị có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên ghi trên hóa đơn mua tài sản cố định, máy móc, thiết bị tại thời điểm thông báo phát hành hóa đơn”

    Doanh nghiệp thành lập trước ngày này (mà vốn dưới 15 tỷ) thì được sử dụng số hóa đơn đã có thông báo phát hành còn lại, sau ngày này thì phải mua của cơ quan Thuế. (khoản 2 Điều 32)

    Doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế muốn tự in hóa đơn thì phải sử dụng phần mềm do cơ quan thuế cung cấp, để cơ quan thuế đảm bảo được toàn bộ dữ liệu của hóa đơn tự in

    Trách nhiệm báo cáo của tổ chức cung ứng phần mềm tự in hóa đơn

    Báo cáo về việc cung ứng phần mềm kế toán tự in hóa đơn phải được lập và gửi cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp theo Quý.

    Báo cáo về việc cung ứng phần mềm tự in hoá đơn Quý I nộp chậm nhất là ngày 30/4; quý II nộp chậm nhất là ngày 30/7, quý III nộp chậm nhất là ngày 30/10 và quý IV nộp chậm nhất là ngày 30/01 của năm sau.

    Trường hợp tổ chức cung ứng phần mềm tự in hóa đơn là tổ chức ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp tự tạo phần mềm tự in hóa đơn để sử dụng thì không phải báo cáo về việc cung ứng phần mềm tự in hoá đơn.

    Không phải gạch chéo với hóa đơn tự in, hóa đơn đặt in bằng máy tính

    Đây là quy định mới tại điểm b khoản 1 Điều 16

    Cho phép viết tắt trên hóa đơn

    Thông tư đã chính thức quy định về việc cho phép viết tắt các từ thông dụng trên hóa đơn (trước đây nội dung này chỉ được hướng dẫn tạm thời bằng các công văn)

    Trường hợp tên, địa chỉ người mua quá dài, trên hóa đơn người bán được viết ngắn gọn một số danh từ thông dụng như: “Phường” thành “P”; “Quận” thành “Q”, “Thành phố” thành “TP”, “Việt Nam” thành “VN” hoặc “Cổ phần” là “CP”, “Trách nhiệm Hữu hạn” thành “TNHH”, “khu công nghiệp” thành “KCN”, “sản xuất” thành “SX”, “Chi nhánh” thành “CN”… nhưng phải đảm bảo đầy đủ số nhà, tên đường phố, phường, xã, quận, huyện, thành phố, xác định được chính xác tên, địa chỉ doanh nghiệp và phù hợp với đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế của doanh nghiệp.

    (điểm b khoản 2 Điều 16)

    Hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ ra nước ngoài không cần có chữ ký người mua

    (điểm đ khoản 2 Điều 16)

    Quy định mới về báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn

    – Trường hợp không sử dụng hóa đơn vẫn phải báo cáo hàng Quý (ghi số lượng hóa đơn sử dụng = 0)

    – Riêng DN mới thành lập, DN sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có hành vi vi phạm không được sử dụng hóa đơn tự in, đặt in, DN thuộc loại rủi ro cao về thuế thực hiện nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo tháng.

    Thời hạn nộp là ngày 20 của tháng tiếp theo. Việc nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo tháng được thực hiện trong thời gian 12 tháng kể từ ngày thành lập hoặc kể từ ngày chuyển sang diện mua hóa đơn của cơ quan thuế.

    (Điều 27)

    Quy định chuyển tiếp về sử dụng hóa đơn xuất khẩu

    – Từ ngày 1/6/2014, cơ quan thuế không tiếp nhận Thông báo phát hành hóa đơn xuất khẩu

    Trường hợp các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh chưa sử dụng hết các số hóa đơn xuất khẩu đã đặt in và thực hiện Thông báo phát hành dụng thì đăng ký số lượng hóa đơn xuất khẩu còn tồn và gửi đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp chậm nhất là ngày 31/7/2014 (Mẫu số 3.12 Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư này)

    – Từ ngày 01/8/2014, các số hóa đơn xuất khẩu còn tồn đã đăng ký theo quy định tại Khoản này được tiếp tục sử dụng. Các số hóa đơn xuất khẩu chưa đăng ký hoặc đăng ký sau ngày 31/7/2014 không có giá trị sử dụng.

    Nguồn Internet

    Bộ Tài Chính ban hành Thông tư số 39/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP. Thông tư 39/2014/TT-BTC thay thế cho Thông tư 64/2013/TT-BTC về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

    Những điểm mới đáng chú ý về hóa đơn theo thông tư 39/2014/TT-BTC

    Cá nhân không được tạo hóa đơn GTGT

    Quy định tại khoản 2 Điều 3 của Thông tư này đã nêu rõ hóa đơn GTGT là loại hóa đơn dành cho các tổ chức khai, tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (bỏ đối tượng cá nhân ra)

    Do đó, đối tượng được tạo hóa đơn GTGT theo quy định tại chương II thông tư này đã được bỏ phần hộ, cá nhân kinh doanh ra.

    Cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng hóa đơn thì có thể sử dụng hóa đơn bán hàng do Cục Thuế bán (thủ tục mua theo Điều 12) hoặc đặt in

    Bỏ loại hóa đơn xuất khẩu

    Theo quy định tại Điều 3, doanh nghiệp khi xuất khẩu sẽ sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng hoặc hóa đơn bán hàng tùy trường hợp:

    – DN kê khai thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng

    – DN kê khai thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp: sử dụng hóa đơn bán hàng

    – DN trong khu phi thuế quan: sử dụng hóa đơn bán hàng (trên hóa đơn ghi rõ “Dành cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan”)

    Vốn trên 15 tỷ mới được tự in hóa đơn

    Một trong những điều kiện tự in hóa đơn theo quy định tại Điều 6 Thông tư là “Doanh nghiệp, Ngân hàng có mức vốn điều lệ từ 15 tỷ đồng trở lên tính theo số vốn đã thực góp đến thời điểm thông báo phát hành hóa đơn”

    Đối chiếu với các quy định về vốn pháp định của ngân hàng thì rõ ràng các Ngân hàng đã được thành lập thì mặc nhiên đáp ứng điều kiện này.

    Đối với các Doanh nghiệp, thì so với điều kiện trước đây chỉ là vốn điều lệ trên 01 tỷ đồng thì đây là mức thay đổi rất lớn.

    Trường hợp Doanh nghiệp thành lập sau ngày 01/6/2014 có vốn điều lệ dưới 15 tỷ muốn tự in hóa đơn thì phải có “thực hiện đầu tư mua sắm tài sản cố định, máy móc, thiết bị có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên ghi trên hóa đơn mua tài sản cố định, máy móc, thiết bị tại thời điểm thông báo phát hành hóa đơn”

    Doanh nghiệp thành lập trước ngày này (mà vốn dưới 15 tỷ) thì được sử dụng số hóa đơn đã có thông báo phát hành còn lại, sau ngày này thì phải mua của cơ quan Thuế. (khoản 2 Điều 32)

    Doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế muốn tự in hóa đơn thì phải sử dụng phần mềm do cơ quan thuế cung cấp, để cơ quan thuế đảm bảo được toàn bộ dữ liệu của hóa đơn tự in

    Trách nhiệm báo cáo của tổ chức cung ứng phần mềm tự in hóa đơn

    Báo cáo về việc cung ứng phần mềm kế toán tự in hóa đơn phải được lập và gửi cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp theo Quý.

    Báo cáo về việc cung ứng phần mềm tự in hoá đơn Quý I nộp chậm nhất là ngày 30/4; quý II nộp chậm nhất là ngày 30/7, quý III nộp chậm nhất là ngày 30/10 và quý IV nộp chậm nhất là ngày 30/01 của năm sau.

    Trường hợp tổ chức cung ứng phần mềm tự in hóa đơn là tổ chức ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp tự tạo phần mềm tự in hóa đơn để sử dụng thì không phải báo cáo về việc cung ứng phần mềm tự in hoá đơn.

    Không phải gạch chéo với hóa đơn tự in, hóa đơn đặt in bằng máy tính

    Đây là quy định mới tại điểm b khoản 1 Điều 16

    Cho phép viết tắt trên hóa đơn

    Thông tư đã chính thức quy định về việc cho phép viết tắt các từ thông dụng trên hóa đơn (trước đây nội dung này chỉ được hướng dẫn tạm thời bằng các công văn)

    Trường hợp tên, địa chỉ người mua quá dài, trên hóa đơn người bán được viết ngắn gọn một số danh từ thông dụng như: “Phường” thành “P”; “Quận” thành “Q”, “Thành phố” thành “TP”, “Việt Nam” thành “VN” hoặc “Cổ phần” là “CP”, “Trách nhiệm Hữu hạn” thành “TNHH”, “khu công nghiệp” thành “KCN”, “sản xuất” thành “SX”, “Chi nhánh” thành “CN”… nhưng phải đảm bảo đầy đủ số nhà, tên đường phố, phường, xã, quận, huyện, thành phố, xác định được chính xác tên, địa chỉ doanh nghiệp và phù hợp với đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế của doanh nghiệp.

    (điểm b khoản 2 Điều 16)

    Hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ ra nước ngoài không cần có chữ ký người mua

    (điểm đ khoản 2 Điều 16)

    Quy định mới về báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn

    – Trường hợp không sử dụng hóa đơn vẫn phải báo cáo hàng Quý (ghi số lượng hóa đơn sử dụng = 0)

    – Riêng DN mới thành lập, DN sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có hành vi vi phạm không được sử dụng hóa đơn tự in, đặt in, DN thuộc loại rủi ro cao về thuế thực hiện nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo tháng.

    Thời hạn nộp là ngày 20 của tháng tiếp theo. Việc nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo tháng được thực hiện trong thời gian 12 tháng kể từ ngày thành lập hoặc kể từ ngày chuyển sang diện mua hóa đơn của cơ quan thuế.

    (Điều 27)

    Quy định chuyển tiếp về sử dụng hóa đơn xuất khẩu

    – Từ ngày 1/6/2014, cơ quan thuế không tiếp nhận Thông báo phát hành hóa đơn xuất khẩu

    Trường hợp các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh chưa sử dụng hết các số hóa đơn xuất khẩu đã đặt in và thực hiện Thông báo phát hành dụng thì đăng ký số lượng hóa đơn xuất khẩu còn tồn và gửi đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp chậm nhất là ngày 31/7/2014 (Mẫu số 3.12 Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư này)

    – Từ ngày 01/8/2014, các số hóa đơn xuất khẩu còn tồn đã đăng ký theo quy định tại Khoản này được tiếp tục sử dụng. Các số hóa đơn xuất khẩu chưa đăng ký hoặc đăng ký sau ngày 31/7/2014 không có giá trị sử dụng.

    Nguồn Internet

  • Những lưu ý khi mua bảo hiểm

    Những lưu ý khi mua bảo hiểm

    Nhiều người lao động, nhất là làm việc tự do hay kinh doanh thường chọn mua bảo hiểm như một cách để dành tiền cho cuộc sống sau khi về hưu, nhưng chọn loại bảo hiểm nào cũng cần có những lưu ý để tránh “giữa đường gãy gánh”…

    bao-hiem
    Người mua bảo hiểm cần xem kỹ hợp đồng, hiểu rõ những quy định về các trường hợp bồi

    thường khi có rủi ro – Ảnh: Diệp Đức Minh

    Loại hình bảo hiểm mới

    Chị Nga (30 tuổi, ngụ Q.Tân Phú, TP.HCM) đang kinh doanh tại nhà nên không phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc như lao động ở các doanh nghiệp (DN). Dù vậy, chị muốn tham gia đóng bảo hiểm để khi hết tuổi lao động sẽ có nguồn thu nhập ổn định cho bản thân. Qua tìm hiểu, chị đang băn khoăn nên đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hay mua bảo hiểm hưu trí tự nguyện (BHHTTN). Trong khi đó, chị Thu Hồng (28 tuổi), nhân viên một DN tại TP.HCM, cho biết dù đã có bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng vẫn muốn có thêm khoản thu nhập để cuộc sống thoải mái hơn khi về hưu. Vì vậy, chị đang tìm hiểu về loại hình BHHTTN vừa được công bố từ đầu năm 2014.

    Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, BHHTTN là sản phẩm thương mại, được các công ty bảo hiểm nhân thọ (BHNT) triển khai. Đối tượng tham gia BHHTTN là người trong độ tuổi lao động, được lựa chọn, thay đổi mức đóng trong quá trình đóng phí. Để khuyến khích người lao động và DN tham gia hai loại hình bảo hiểm mới này, phần đóng góp sẽ được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế của cá nhân (nhưng tối đa không quá 1 triệu đồng/tháng). Bên cạnh đó, tiền lương hưu nhận được hằng tháng từ quỹ hưu trí tự nguyện là khoản thu nhập được miễn thuế…

    Theo công bố của các công ty bảo hiểm, nếu một khách hàng tham gia BHHTTN từ năm 30 tuổi, với mức đóng 1 triệu đồng/tháng thì mức “lương hưu” sẽ nhận được hơn 14 triệu đồng/tháng. Số tiền đóng góp hằng tháng càng cao thì mức thu nhập khi nghỉ hưu càng lớn. Người tham gia BHHTTN sẽ được chi trả trong khoảng thời gian 15 năm kể từ khi về hưu (mức lãnh lương có thể lựa chọn theo tháng hoặc quý). Việc đóng BHHTTN cũng sẽ được tính lãi suất hằng năm trên tổng số tiền đã đóng… Tuy nhiên, theo quy định, người mua BHHTTN chỉ được hưởng lương hưu hằng tháng khi đủ 60 tuổi (nam), 55 tuổi (nữ) và 20 năm đóng phí.

    Tìm hiểu kỹ hợp đồng

    Dù BHHTTN được cho là có nhiều ưu điểm, nhưng nhiều người lao động cho rằng thời gian đóng bảo hiểm quá dài và ít mang tính linh hoạt. Trong khi đó, BHNT có nhiều sản phẩm cũng đang phát triển mạnh để cạnh tranh. Anh Dũng, một nhân viên chứng khoán ở Q.1, TP.HCM đã chọn mua BHNT thời gian 15 năm. Theo phân tích của anh, tham gia BHNT linh hoạt hơn và quan trọng nhất là nó mang tính bảo vệ cao hơn cho bản thân và gia đình, nhất là khi trong cuộc sống, không ai lường trước được những rủi ro về tai nạn, bệnh tật… “Nếu không có những rủi ro thì mình vẫn nhận đủ lại số tiền đã đóng góp cộng thêm với khoản lãi suất hằng năm. Với hợp đồng 15 năm, mỗi năm tôi đóng 8 triệu đồng, đến khi hết hạn số tiền tích lũy được là 120 triệu đồng. Dù không nhiều nhưng đó vẫn là khoản tiết kiệm và chưa tính lãi suất được chia khoảng 8%/năm, mình có thể chuyển thành khoản tiết kiệm gửi vào ngân hàng để chi tiêu thêm sau khi về hưu. Mức phí đóng này phù hợp với thu nhập của một nhân viên bình thường như tôi”, anh Dũng nói.

    Tuy nhiên, dù chọn loại hình bảo hiểm nào, các chuyên gia tài chính cũng lưu ý người mua đều phải đọc kỹ hợp đồng, hiểu rõ những quy định về các trường hợp bồi thường khi có rủi ro hoặc nếu muốn kết thúc hợp đồng trước hạn…; đồng thời nên lựa chọn số tiền mình có thể đóng hằng tháng trong khả năng nhất định chứ không nên đóng quá cao, dễ bị hụt hơi. Đặc biệt, những người có khả năng tài chính eo hẹp hoặc thu nhập không ổn định thì không nên tham gia BHNT vì nếu ngưng hợp đồng trước hạn, quyền lợi không những chẳng có mà số tiền đã đóng cũng xem như gần mất trắng.

    Thảo Vy – Thanhnien.com.vn

  • Phải trả tiền bảo hiểm cho giúp việc gia đình từ ngày 25-5

    Phải trả tiền bảo hiểm cho giúp việc gia đình từ ngày 25-5

    Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành nghị định 27/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của bộ Luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình. Theo đó, từ ngày 25-5, người sử dụng lao động giúp việc gia đình sẽ phải ký kết hợp đồng lao động với các nội dung theo quy định.
    Nghị định 27/2014/NĐ-CP quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người sử dụng lao động, người giúp việc gia đình trong việc thực hiện hợp đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, kỷ luật lao động, an toàn lao động… theo quy định của bộ Luật Lao động.

    Nghị định nêu rõ, lao động giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình bao gồm: nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại.

    Theo quy định mới, nội dung hợp đồng lao động phải ghi rõ thỏa thuận về tiền lương, điều kiện ăn ở của người giúp việc, tiền tàu xe về nơi cư trú khi chấm dứt hợp đồng lao động đúng hạn, thời gian và mức chi phí hỗ trợ người giúp việc gia đình học văn hóa, học nghề (nếu có), trách nhiệm bồi thường do gây thiệt hại về tài sản của người sử dụng lao động, các hành vi nghiêm cấm…

    Tiền lương bao gồm cả chi phí ăn ở của người giúp việc gia đình (nếu có) do hai bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định. Chi phí ăn, ở hàng tháng của người giúp việc gia đình không được vượt quá 50% mức tiền lương trong hợp đồng lao động.

    Đặc biệt, trong trường hợp người sử dụng lao động yêu cầu người giúp việc làm việc ngoài thời gian ghi trong hợp đồng lao động, làm việc vào ngày nghỉ lễ, ngày Tết… thì phải trả tiền lương làm thêm giờ theo quy định tại điều 97 của Luật Lao động.

    Giup_viec
    Về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả thêm một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế cho lao động giúp việc gia đình cùng lúc với kỳ trả lương để người lao động tự lo bảo hiểm.

    Trong trường hợp người giúp việc gia đình bị ốm, bị bệnh, chi phí khám, chữa bệnh do người lao động chi trả. Thời gian nghỉ việc do bị bệnh, bị ốm người sử dụng lao động không phải trả lương.

    Về thời gian làm việc, nghỉ ngơi do hai bên thỏa thuận nhưng người giúp việc gia đình phải được nghỉ ít nhất tám giờ/ngày, trong đó có sáu giờ nghỉ liên tục. Mỗi tuần người giúp việc phải được nghỉ ít nhất 24 giờ liên tục hoặc bình quân ít nhất bốn ngày trong một tháng.

    Đối với những người giúp việc gia đình có đủ 12 tháng làm việc cho một chủ sử dụng lao động thì thời gian nghỉ hàng năm là 12 ngày làm việc được hưởng nguyên lương. Trước khi nghỉ hàng năm, người giúp việc gia đình được ứng trước một khoản tiền ít nhất bằng tiền lương cho những ngày nghỉ.

    Thời gian thử việc cũng do hai bên tự thỏa thuận nhưng không được quá sáu ngày làm việc.

    Nghị định này có hiệu lực từ ngày 25-5. Người sử dụng lao động đang thuê mướn lao động giúp việc gia đình trước ngày nghị định có hiệu lực thì phải thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động hoặc ký kết hợp đồng mới và thông báo với ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người lao động làm việc trong thời gian 10 ngày kể từ ngày ký hợp đồng lao động.

    Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

  • Phần mềm chấm công thực tế doanh nghiệp

    Phần mềm chấm công thực tế doanh nghiệp

    Bài viết sau đây là tổng hợp kinh nghiệm thực tế tôi đã làm việc với nhiều doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường Việt Nam ở khắp các vùng miền từ Hà Nội, Hải Dương tới tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương,…

    Các doanh nghiệp cũng nằm trong mọi ngành nghề như tập đoàn đa ngành nghề, công ty dịch vụ, thương mại, nhà hàng khách sạn, công ty sản xuất hay trường học và tổ chức giáo dục.

    Với bài viết này, tôi nghĩ rằng bạn sẽ thấy một phần hiện trạng của doanh nghiệp mình đang thực hiện, hãy hiểu hơn để có thể cải tiến áp dụng cho doanh nghiệp của mình hiệu quả nhất.

    A. Những loại hình chấm công cơ bản tôi tổng hợp thành ba nhóm lớn như sau:

    I. Đặc trưng của chấm công trong văn phòng (hành chánh)

    • Không ảnh hưởng tới lịch làm việc
    • Không được quan tâm đầy đủ
    • Có thực hiện nhưng không chú trọng
    • Kết quả có thể du di và tạm được

    II. Đặc trưng của chấm công: giảng viên (theo tiết), bác sỹ (theo ca trực), khoán, …

      • Tác động trực tiếp tới lịch làm việc
      • Đòi hỏi quy định rõ ràng và theo dõi liên tục, lịch được thông báo thường xuyên tới người nhận lịch
      • Ảnh  hưởng tới hiệu quả công việc do thời gian làm việc ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả công việc
    • Kết quả phải chính xác và kiểm xoát điều chỉnh kịp thời để tăng hiệu quả

    III. Đặc trưng của chấm công trong: quản lý sản xuất, bán hàng, nhà hàng, khách sạn theo ca, kíp

    Tác động trực tiếp tới lịch làm việc, vì sản xuất sẽ kém hiệu quả khi một khâu chậm hơn, hoặc có những khâu sẽ không vận hành được nếu thiếu người, từ đó sẽ anh hưởng tới hiệu quả sản xuất. Lịch làm việc này rất quan trọng nên cần làm tốt, kết quả phải chính xác, kịp thời và được cập nhật nhanh

    III. Đặc trưng của chấm công trong: quản lý bán hàng cửa hàng, nhà hàng, khách sạn

    Lịch làm việc rất quan trọng, vì đúng giờ, đủ số nhân viên và lên ca phù hợp, sẽ tác động trực tiếp tới kết quả của doanh nghiệp.

    Vì thiếu người, chậm trể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dịch vụ, công việc kinh doanh và là yếu tố quan trọng hàng đầu của ngành này.

    Nên chấm công hay lên lịch làm việc cho nhân viên đóng vai trò quan trọng, đòi hỏi sự tiện dụng, linh hoạt và nhiều tiện ích để phòng nhân sự, bộ phận quản lý và nhân viên cùng làm việc.

    IV. Nhưng thông thường một tổ chức sẽ sử dụng tổng hợp nhiều hình thức để theo dõi chấm công cho các loại hình nhân viên khác nhau:

    Tạm hiểu nhân viên được chia thành 4 thành phần như: Quản lý và chuyên gia (theo hiệu quả công việc, không cần chấm công chính xác, sẽ áp dụng lịch linh hoạt), Khối văn phòng hành chính (áp dụng lịch hành chính), khối thực hiện công việc theo ca, ca trực, theo tiết, thường xuất hiện trong ngành bán hàng, giáo dục và y tế, khối công việc sản xuất trực tiếp thì làm việc theo ca kíp làm việc rõ ràng.

    B. Công cụ sử dụng chấm công

    1. Chấm công bằng form giấy, máy quẹt thẻ giấy, sau đó tổng hợp lên bảng tính
    2. Chấm công bằng Excel đơn thuần.
    3. Excel kết hợp phần mềm nhân sự – chấm công
    4. Chấm bằng máy chấm công, nhưng kết quả được xử lý thủ công
    5. Chấm bằng phần mềm nhân sự – chấm công và kết hợp máy chấm công

    C. Các phương pháp thực hiện chấm công thường gặp

    • Phòng nhân sự tự chấm bằng (Excel, phần mềm, máy chấm công)
    • Trưởng bộ phận chấm gửi về phòng nhân sự tổng hợp (giấy, Excel)
    • Nhân viên quẹt thẻ, chuyên viên chấm công phòng nhân sự nhận dữ liệu và xử lý
    • Nhân viên đăng ký và các cấp cập nhật (Phần mềm chấm vắng mặt)
    • Phối hợp đồng bộ giữa thiết bị hỗ trợ, quy định, và bộ phận nhân sự để chấm công

    I. Chấm bằng form giấy, máy quẹt thẻ giấy

    • Dữ liệu sẽ được nhân viên tự chấm tại máy chấm thẻ giấy, hay trưởng bộ phận chấm vào bảng giấy
    • Dữ liệu chuyển về phòng nhân sự tổng hợp

    Đặc trưng

    • Dữ liệu có tính chất thủ công
    • Khó kiểm xoát do nhiều nguồn thực hiện nhưng không có công cụ kiểm xoát chéo
    • Kết quả có thể du di do người chấm trực tiếp quyết định
    • Mất nhiều thời gian tổng hợp
    • Có thể sai do nhập liệu lại
    • Dữ liệu không tức thời, thông tin chậm trể

    II. Chấm bằng form Excel

    • Dữ liệu được trưởng bộ phận chấm gửi về phòng nhân sự
    • Dữ liệu được phòng nhân sự chấm trực tiếp qua nhân viên chấm công

    Đặc trưng

    • Tiến bộ hơn là có data sẵn sàng nên chuyển đổi vào 1 hệ thống khác thuận lợi hơn

    III. Chấm bằng form Excel kết hợp phần mềm nhân sự chấm công

    • Dữ liệu được trưởng bộ phận chấm gửi về phòng nhân sự
    • Dữ liệu được phòng nhân sự chấm trực tiếp qua nhân viên chấm công
    • Phần mềm nhân sự (phần mềm chấm công) nhận thông tin từ data Excel và lưu vào database, sử dụng cho các việc khác dễ dàng

    Đặc trưng

    • Dữ liệu vẫn có tính chất thủ công, nhưng chuẩn hóa form Excel
    • Khó kiểm xoát do nhiều nguồn thực hiện nhưng không có công cụ kiểm xoát chéo
    • Kết quả vẫn có thể du di do người chấm trực tiếp quyết định
    • Mất nhiều thời gian tổng hợp lại
    • Tiến bộ hơn là có data sẵn sàng nên dễ chuyển đổi vào 1 hệ thống khác thuận lợi hơn- Import vào phần mềm nhân sự (phần mềm chấm công)

    IV. Chấm bằng máy chấm công nhưng xử lý dữ liệu thủ công

      • Dữ liệu được máy chấm công ghi nhận

    • Phần mềm nhân sự (phần mềm chấm công) kèm theo máy chấm công chỉ làm đươc các việc cơ bản, dẫn tới dữ liệu cần được nhân sự xử lý lại khi cần cho các việc phức tạp

    Đặc trưng

      • Dữ liệu đã được chuẩn hóa, nhưng vẫn can thiệp thủ công nhiều
      • Kiểm xoát tốt hơn do có công cụ kiểm xoát chéo (dữ liệu trên máy chấm công), nhưng vẫn gặp khó khăn do xử lý lại data thô từ máy chấm công
    • Tiến bộ hơn là có data sẵn sàng dễ nên chuyển đổi vào 1 hệ thống khác thuận lợi hơn- Import vào phần mềm nhân sự (phần mềm chấm công)

    V. Chấm bằng phần mềm nhân sự (phần mềm chấm công) và kết hợp máy chấm công

      • Dữ liệu được máy chấm công ghi nhận
      • Phần mềm gán các quy định về lịch làm việc
      • Đọc dữ liệu từ máy chấm công vào phần mềm nhân sự (phần mềm chấm công)
    • Kết hợp các quy định và xử lý dữ liệu ra kết quả, đưa vào phần tính lương của phần mềm nhân sự tiền lương để thực hiện tính toán, giúp đồng nhất kết quả làm việc giữa các khâu.

    Đặc trưng

    • Dữ liệu và quy tắc đã được chuẩn hóa phần mềm nhân sự
    • Kiểm xoát tốt hơn do có công cụ kiểm xoát chéo (dữ liệu trên máy chấm công)
    • Mất nhiều thời gian tổng hợp lại
    • Dữ liệu được xử lý nhanh chóng giữa quy định và data thực tế (tất cả đều đã có trong hệ thống phần mềm)
    • Phòng nhân sự chỉ làm nhiệm vụ kiểm xoát và điều chỉnh khi phát sinh

    Các đặc điểm chi tiết khác khi chấm bằng phần mềm và kết hợp máy chấm công

      • Dữ liệu được máy chấm công ghi nhận
      • Phần mềm gán các quy định: Đi ca, xoay ca, đổi ca, tăng ca, đi trể, về sớm, …
      • Cho phép nhân sự quản lý công nhân và các trưởng bộ phận đăng ký khi phát sinh ca làm việc bất thường
      • Cho phép nhân viên đăng ký giờ làm việc tại 01 ngày bất thường và cấp quản lý duyệt: công tác, đi học, nghỉ phép, …
      • Đọc dữ liệu từ máy chấm công vào phần mềm
      • Dựa trên các quy định và xử lý dữ liệu ra kết quả
    • Cho phép nhân viên quản lý chấm công xuất dữ liệu đối chiếu với quản lý khi dữ liệu bất thường

    Những khó khăn cơ bản thường gặp

    • Tổ chức chấm công thường chưa được quy định thành văn bản rõ ràng, mà việc tổ chức thường được truyền đạt hoặc nằm rãi rác ở một số khâu.
    • Đối với chấm công có nhiều nhân viên, khó khăn sẽ là dữ liệu nhiều, nên quá trình kiểm tra mất nhiều thời gian khi có sự bất thường hoặc khó phát hiện do dữ liệu chưa được tổ chức theo dõi khoa học.
    • Đưa công nghệ vào ứng dụng thường thiếu đồng bộ
    • Khó phối hợp thực hiện khi yêu cầu chấm công phức tạp từ nhiều khâu công việc khác nhau.

    D. Kết luận

    • Am hiểu các phương pháp chấm công có thể áp dụng.

    • Vận dụng đúng với mục đích của doanh nghiệp bạn (đặc trưng ngành nghề và công việc của bạn).
    • Và có thể đầu tư (kinh phí), tổ chức thực hiện được (con người).

     Quy trình phần mềm chấm công của phần mềm nhân sự tính lương CoreHRM

    >>> Tham khảo thêm phần mềm tính lương trong doanh nghiệp

  • Nâng cấp phần mềm khai thuế qua mạng (iHTKK) phiên bản 2.3.2 và phần mềm HTKK phiên bản 3.2.2

    Nâng cấp phần mềm khai thuế qua mạng (iHTKK) phiên bản 2.3.2 và phần mềm HTKK phiên bản 3.2.2

    Về việc nâng cấp ứng dụng khai thuế qua mạng (iHTKK) phiên bản 2.3.2 hỗ trợ Người nộp thuế kê khai các tờ khai thủy điện, dầu khí theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC với những nội dung chính như sau:HTKK 322 26-03-2014

    1. Nâng cấp các tờ khai dành cho hoạt động sản xuất Thủy điện theo thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính.

    • Tờ khai thuế GTGT dành cho các cơ sở sản xuất thủy điện hạch toán phụ thuộc EVN, mẫu số 01/TĐ-GTGT
    • Bảng kê Số thuế GTGT phải nộp của cơ sở sản xuất thủy điện cho các địa phương, mẫu số 01-1/TĐ-GTGT
    • Bảng phân bổ số thuế GTGT phải nộp của cơ sở sản xuất thủy điện cho các địa phương, mẫu số 01-2/TĐ-GTGT
    • Tờ khai thuế tài nguyên dành cho cơ sở sản xuất thủy điện, mẫu số 03/TĐ-TAIN
    • Bảng phân bổ số thuế tài nguyên của cơ sở sản xuất thủy điện cho các địa phương, mẫu số 03-1/TĐ-TAIN
    • Bảng phân bổ số thuế TNDN phải nộp của cơ sơ sản xuất thủy điện cho các địa phương, mẫu số 02-1/TĐ-TNDN

    2. Nâng cấp các tờ khai đối với Dầu khí theo thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính.

    • Tờ khai thuế TNDN tạm tính đối với dầu khí, mẫu số 01A/TNDN-DK
    • Tờ khai thuế TNDN tạm tính đối với khí thiên nhiên, mẫu số 01B/TNDN-DK
    • Tờ khai thuế Tài nguyên tạm tính đối với dầu khí, mẫu số 01/TAIN-DK
    • Phụ lục chi tiết nghĩa vụ thuế của các nhà thầu dầu khí, mẫu số 01/PL-DK
    • Báo cáo dự kiến sản lượng dầu khí khai thác và tỷ lệ tạm nộp thuế, mẫu 01/BCTL-DK

    Người nộp thuế có thể thực hiện các chức năng kê khai trực tuyến, nộp tờ khai kết xuất từ ứng dụng HTKK phiên bản 3.2.2 đối với các tờ khai, phụ lục nêu trên (Người nộp thuế tải ứng dụng HTKK phiên bản 3.2.2 Tại đây).
    Hệ thống Khai thuế qua mạng hỗ trợ đính kèm bảng kê Excel đối với các bảng kê mẫu số: 01-1/TĐ-GTGT; 01-2/TĐ-GTGT;
    Tổng cục Thuế thông báo