Tác giả: admin

  • Không đóng BHXH, cả người lao động và doanh nghiệp đều bị phạt

    Không đóng BHXH, cả người lao động và doanh nghiệp đều bị phạt

    Tham gia bảo hiểm xã hội vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của người lao động. Thế nhưng, vẫn có trường hợp người lao động và doanh nghiệp cố tình không đóng. Trong trường hợp này, người lao động và doanh nghiệp bị phạt thế nào?

    Mức phạt với người lao động
    Bảo hiểm xã hội có bản chất là sự bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, về hưu… Chính vì thế, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc và yêu cầu tất cả người lao động làm việc theo hợp đồng lao động phải tham gia.

    Hàng tháng, người lao động phải đóng 9% tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội vào Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.

    Theo khoản 1 Điều 26 Nghị định 95/2013/NĐ-CP, hành vi người lao động bắt tay thỏa thuận với doanh nghiệp không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng – 01 triệu đồng, đồng thời bị buộc truy nộp số tiền bảo hiểm chưa đóng.

    Muc Luong Dong

    Mức phạt với doanh nghiệp

    Nếu như người lao động chỉ phải đóng 9% tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội vào Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp thì doanh nghiệp phải đóng 18,5%. Do đó, thực tế hiện nay, không ít doanh nghiệp “trốn” nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội.

    Theo Nghị định 95/2013/NĐ-CP, nếu doanh nghiệp không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động sẽ chịu mức phạt nghiêm khắc. Cụ thể như sau:

    – Phạt tiền từ 18% – 20% tổng số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp tại thời điểm bị lập biên bản vi phạm hành chính, nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng;

    – Bị buộc truy nộp số tiền bảo hiểm chưa đóng;

    – Bị buộc đóng số tiền lãi của số tiền bảo hiểm chưa đóng theo mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ Quỹ bảo hiểm xã hội trong năm.

    Như vậy, trong trường hợp người lao động và doanh nghiệp thỏa thuận về việc không đóng BHXH thì cả người lao động và doanh nghiệp đều bị phạt. Trường hợp người lao động muốn đóng nhưng doanh nghiệp cố tình không đóng thì chỉ doanh nghiệp chịu phạt.

    Nguồn: LuatVN.vn

  • Đề xuất bỏ giới hạn làm thêm giờ trong tháng

    Đề xuất bỏ giới hạn làm thêm giờ trong tháng

    Ngày 29-8, trao đổi với phóng viên bên lề hội nghị cung cấp thông tin định kỳ về BHXH, BHYT tháng 8-2018, ông Lê Đình Quảng, Phó trưởng Ban Quan hệ lao động Tổng LĐLĐ Việt Nam, cho biết theo kết quả khảo sát được Viện Công nhân và Công đoàn tiến hành với trên 3.000 người lao động (NLĐ) tại 150 doanh nghiệp (DN) đủ các loại hình ở 25 tỉnh, thành phố có tới hơn 50% NLĐ phải làm thêm giờ mới đủ trang trải cuộc sống.

    Lamthemgio

    Theo dự thảo Bộ Luật Lao động sửa đổi một trong những nội dung được quan tâm là đề xuất nâng thời giờ làm thêm tối đa trong năm. “Cá nhân tôi đồng ý với việc bãi bỏ quy định giới hạn làm thêm giờ trong tháng hoặc nới thời gian làm thêm để giải quyết khó khăn thực tế của DN khi có chu kỳ sản xuất đột xuất, thời vụ như: sản xuất bánh trung thu, ngành dệt may, chế biến thủy sản… Tuy nhiên, cùng với việc bãi bỏ quy định này cần bổ sung quy định lương làm thêm giờ phải được tính lũy tiến theo số giờ làm thêm. Chẳng hạn khi NLĐ làm thêm giờ vào ngày thường và đến 30 giờ trong tháng được trả ít nhất 150%; từ trên 30 giờ trong tháng trở lên được trả ít nhất 200%. Có như vậy mới buộc được các DN phải tính toán trước khi huy động lao động làm thêm giờ, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho NLĐ” – ông Quảng nói.

    Theo ông Quảng, trên thế giới khoảng 30 nước có giới hạn làm thêm giờ. Mặc dù quy định trần giờ làm thêm ở Việt Nam còn thấp hơn nhưng thực tế quỹ thời gian làm việc tối đa của NLĐ lại cao hơn một số nước trong khu vực. NLĐ đang làm việc 48 giờ/tuần và giờ chính thức làm việc trong năm là 2.320 giờ trong khi Hàn Quốc số giờ làm việc này chỉ là 1.880 giờ

    Nguồn:nld.com.vn

  • 10 Điều người lao động cần biết để bảo vệ quyền lợi

    10 Điều người lao động cần biết để bảo vệ quyền lợi

    Bộ luật Lao động(BLLĐ) mới nhất được ban hành ngày 18/06/2012 và có hiệu lực từ ngày 01/05/2013. Tại Bộ luật này, có rất nhiều điều người lao động cần biết để bảo vệ quyền lợi của mình. Dưới đây LuatVietnam giới thiệu 10 điểm quan trọng nhất của Bộ luật Lao động liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người lao động.

    1. Chỉ được thử việc 01 lần

    – Theo Điều 27 Bộ luật Lao động 2012: Thời gian thử việc căn cứ vào tính chất, mức độ phức tạp của công việc nhưngchỉ được thử việc 01 lầnđối với một công việc.

    Thời gian thử việc tối đa:

    + Không quá 60 ngày (đối với công việc cần trình độ từ cao đẳng trở lên);

    + Không quá 30 ngày (đối với công việc cần trình độ trung cấp);

    + Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác.

    – Doanh nghiệp yêu cầu lao động thử việc quá 01 lần hoặc quá thời gian quy định bị phạt tiền từ 02 – 05 triệu đồng và buộc trả đủ 100% tiền lương cho người lao động (Điều 6 Nghị định 95/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 88/2015/NĐ-CP).

    2. Lương thử việc ít nhất bằng 85% lương chính thức

    – Điều 28 Bộ luật Lao động 2012 quy định: Lương trong thời gian thử việc của NLĐ do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

    – Doanh nghiệp trả lương cho NLĐ thấp hơn 85% mức lương của công việc đó trong thời gian thử việc bị phạt tiền từ 02 – 05 triệu đồng (Điều 6 Nghị định 95/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 88/2015/NĐ-CP).

    Luong Thu Viec

    Lương thử việc ít nhất bằng 85% lương chính thức (Ảnh minh họa)

    3. 03 ngày trước khi kết thúc thử việc phải báo cho NLĐ kết quả thử việc

    Điều 7 Nghị định 05/2015/NĐ-CP nêu rõ:

    Trong thời hạn 3 ngày trước khi kết thúc thử việc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc, nếu đạt yêu cầu thì kết thúc thời gian thử việc người sử dụng lao động phải ký hợp đồng lao động ngay với người lao động.

    Nếu không đạt yêu cầu, người sử dụng lao động có quyền chấm dứt hợp đồng thử việc.

    Điểm d khoản 2 Điều 7 Nghị định 88/2015/NĐ-CP, khi kết thúc thời gian thử việc, người lao động vẫn tiếp tục làm việc mà người sử dụng lao động không ký hợp đồng lao động với người lao động, sẽ bị xử phạt hành chính với mức từ 02 -05 triệu đồng.

    4. Không được giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng chứng chỉ của NLĐ

    Điều 20 Bộ luật Lao động năm 2012 có quy định, doanh nghiệp không được giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của NLĐ. Nếu vi phạm thì bị phạt tiền từ 20 – 25 triệu đồng (Điều 5 Nghị định 95/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 88/2015/NĐ-CP).

    5. Thời gian làm việc

    – Thời giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và 48 giờ trong 01 tuần (Điều 104 Bộ luật Lao động 2012)

    – Phạt tiền từ 20 – 25 triệu đồng đối với doanh nghiệp thực hiện thời giờ làm việc bình thường quá số giờ làm việc theo quy định (khoản 3 Điều 14 Nghị định 95/2013/NĐ-CP).

    Thoi Gian Lam Viec
    Thời gian làm việc không quá 40 tiếng/tuần (Ảnh minh họa)

    6. Lương chính thức không thấp hơn lương tối thiểu vùng

    Từ năm 2018, mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh theo Nghị định 141/2017/NĐ-CP. Cụ thể, như sau:

    – Vùng I: 3.980.000 đồng/tháng.

    – Vùng II: 3.530.000 đồng/tháng.

    – Vùng III: 3.090.000 đồng/tháng.

    – Vùng IV: 2.760.000 đồng/tháng.

    Theo khoản 4 Điều 13 Nghị định 95/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 88/2015/NĐ-CP, doanh nghiệp trả lương cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu vùng sẽ bị xử phạttừ 20 – 75 triệu đồngtùy thuộc vào mức độ vi phạm.

    Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải trả đủ tiền lương cộng với tiền lãi của số tiền lương trả thiếu cho người lao động tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm bị xử phạt vi phạm hành chính.

    Đáng chú ý, mới đây, Hội đồng Tiền lương quốc gia đãchốt mức tăng lương tối thiểu vùng 2019.

    7. Tiền lương làm thêm giờ

    Theo Bộ luật Lao động, NLĐ làm thêm giờ vào ngày thường được hưởng 150% lương; vào ngày nghỉ hằng tuần được hưởng 200%; vào ngày lễ, Tết được hưởng 400% lương (Điều 97, Điều 115 – Bộ luật Lao động năm 2012).

    Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm được trả lương: Ngày thường = 210%; ngày nghỉ hàng tuần = 270%; ngày lễ, Tết = 390%.

    Doanh nghiệp trả lương làm thêm giờ thấp hơn quy định sẽ bị phạt tiền từ 05 – 50 triệu đồng.

    Tham khảo, cách tính tiền làm thêm giờ vào ban đêm ngày Lễ, Tếttại đây.

    8. Người lao động được trả lương đúng hạn, đầy đủ

    Điều 96 Bộ luật Lao động 2012 nêu rõ nguyên tắc trả lương cho người lao động: Trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn

    Trường hợp đặc biệt do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được trả chậm quá 01 tháng.

    Luong Thuong
    Chậm trả lương người lao động được nhận thêm tiền lãi (Ảnh minh họa)

    9. Lao động nữ được nghỉ 30 phút/ngày trong kỳ “đèn đỏ”

    Theo BLLĐ 2012, lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, tối thiểu là 03 ngày trong 01 tháng.

    Đáng chú ý, doanh nghiệp không cho lao động nữ nghỉ 30 phút ngày “đèn đỏ” sẽ bị phạt. Cụ thể, mức phạt xem.

    10. Cấm phạt tiền, cắt lương NLĐ thay cho xử lý kỷ luật lao động

    Bộ luật Lao động 2012 nhấn mạnh cấm dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.

    Nếu vi phạm bị phạt tiền từ 10 – 15 triệu đồng, đồng thời buộc trả lại tiền hoặc trả đủ tiền lương cho người lao động.

    Trên đây là 10 quy định của Bộ luật Lao động mới nhất người lao động cần biết để bảo vệ quyền lợi của mình. Quý khách hàng của LuatVietnam có thể tra cứu tất cả văn bản lĩnh vực LAO ĐỘNG – TIỀN LƯƠNG.

    Nguồn: Luatvietnam.vn

  • Quốc hội thông qua luật doanh nghiệp (sửa đổi) – bãi bỏ con dấu doanh nghiệp từ

    Quốc hội thông qua luật doanh nghiệp (sửa đổi) – bãi bỏ con dấu doanh nghiệp từ

    Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) gồm 10 chương, 213 điều được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 và sẽ chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2015.

    Sáng 26/11, sau khi 85,51 % đại biểu quốc hội nhấn nút biểu quyết thông qua Luật doanh nghiệp (sửa đổi), các doanh nghiệp được quyết định sử dụng hoặc không sử dụng con dấu. Nếu vẫn sử dụng, doanh nghiệp có quyền tự chủ quyết định về hình thức, nội dung và việc quản lý, sử dụng con dấu.Đồng thời, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Khi tham gia các hoạt động kinh doanh, bên đối tác đương nhiên có các biện pháp kiểm tra toàn diện về doanh nghiệp, kể cả tính xác thực của con dấu để hai bên có thể tin tưởng, ký kết, thực hiện giao dịch.
    Theo đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, doanh nghiệp nên có quyền tự chủ quyết định về hình thức, nội dung và việc quản lý, sử dụng con dấu. Sau khi tự quyết định con dấu, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo với cơ quan quản lý để đăng tải công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia. Việc này giúp các doanh nghiệp có thể kiểm tra tính xác thực của con dấu đối tác trước khi thực hiện giao dịch.

    Như vậy, với Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) được thông qua lần này, con dấu doanh nghiệp không còn là điều bắt buộc, mang giá trị pháp lý như trước mà chỉ mang tính chất nhận diện doanh nghiệp.
    Trước đó, con dấu của doanh nghiệp do Bộ Công an cấp, theo hình thức, nội dung được quy định sẵn. Doanh nghiệp không được phép tự ý thay đổi và phải dành thời gian, chi phí cho việc bảo quản cũng như gặp rất nhiều khó khăn nếu mất con dấu. Bỏ con dấu doanh nghiệp là một trong những nội dung được quan tâm nhất trong Luật Doanh nghiệp sửa đổi lần này. Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng các doanh nghiệp không nên lãng phí thời gian vào những thủ tục kinh doanh lỗi thời và không cần thiết như con dấu doanh nghiệp. Số liệu của WB cho thấy con dấu cản trở việc chính thức thành lập doanh nghiệp do chi phí và thời gian. Ở Việt Nam mất 6 ngày, Lào mất 20 ngày và các nước châu Phi mất 1 tháng để hoàn thành thủ tục đăng ký con dấu. Việc kinh doanh trực tuyến ngày càng phát triển và con dấu trở nên lỗi thời, gây trở ngại cho doanh nghiệp.
    Việc con dấu doanh nghiệp được bãi bỏ là sự cởi trói lớn cho doanh nghiệp, thể hiện sự thay đổi tư duy trong quản lý của nhà nước.
    Các giao dịch của doanh nghiệp như xuất hóa đơn, ký hợp đồng với đối tác, giao dịch với cơ quan thuế, hải quan, bảo hiểm… có thể sử dụng chữ ký số (chữ ký điện tử) vẫn hoàn toàn hợp lệ.

     Ngoài việc bãi bỏ con dấu doanh nghiệp, dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi) còn có một số điểm đáng lưu ý như:
    Công ty có thể có nhiều người đại diện pháp luật: Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp quy định vấn đề này như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nhiệm vụ, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.” Tùy từng nội dung giao dịch, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với thẩm quyền tương ứng được quy định trong Điều lệ sẽ thực hiện giao dịch với các đối tác. Điều lệ công ty được đăng tải công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nên các đối tác đều có thể biết và xác nhận những nội dung này, trên cơ sở đó, tự chủ quyết định ký kết hợp đồng, thực hiện giao dịch.
    Về đăng ký kinh doanh: Bãi bỏ đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã ngành khi thực hiện đăng ký kinh doanh. Theo đó, từ ngày 01/07/2015, nội dung Giấy chứng nhận đăng ký DN chỉ bao gồm tên, mã số, địa chỉ trụ sở chính của DN; vốn điều lệ và thông tin người đại diện theo pháp luật; thông tin các thành viên hợp danh (đối với công ty hợp danh) hoặc chủ DN (đối với DN tư nhân)… Khi có thay đổi trong nội dung Giấy chứng nhận, DN phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có thay đổi; đồng thời phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN trong thời hạn 30 ngày..
    Đặc biệt, Luật cũng nhấn mạnh, từ ngày 01/07/2015, hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập DN; đối với những hộ kinh doanh có quy mô nhỏ, việc đăng ký kinh doanh và hoạt động được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

     Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) gồm 10 chương, 213 điều được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 và sẽ chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2015.

  • Đóng bảo hiểm tự nguyện không được hưởng chế độ thai sản?

    Đóng bảo hiểm tự nguyện không được hưởng chế độ thai sản?

    * Tôi đóng BHXH từ tháng 11-2014 đến 6-2015. Mới đây, do sức khỏe kém nên tôi xin thôi việc. Sau khi thôi việc, tôi phát hiện mình có thai và ngày dự sinh là 7-2-2016.

    Vậy tôi có được hưởng chế độ thai sản không? Nếu thời gian tham gia BHXH bắt buộc không đủ, tôi có thể tiếp tục đóng BHXH, BHYT tự nguyện để được hưởng chế độ thai sản không?

    Truong Thi Ngoc Tuyen (ngoctuyen0709@gmail.com)

    Ông Nguyễn Đăng Tiến, Phó Giám đốc BHXH TP HCM, trả lời: Quá trình tham gia BHXH của chị từ tháng 11-2014 đến tháng 6-2015, nếu dự sinh con vào ngày 7-2-2016 thì không đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản (phải đóng BHXH đủ 6 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh). Nếu chị tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện thì cũng không được giải quyết chế độ thai sản khi sinh con. Ngoài ra, do chị đã nghỉ việc, không còn quan hệ lao động nên không được giải quyết tiền lương những ngày đi khám thai.

    Theo nld.com.vn

  • Đi trễ là bị trừ lương

    Đi trễ là bị trừ lương

    * Công ty quy định người lao động đi trễ dù chỉ 1 phút cũng bị trừ lương. Tháng trước, do đưa con đi chích ngừa nên tôi vào trễ 30 phút.

    Tôi đã giải thích và chứng minh song vẫn bị trừ 500.000 đồng. Công nhân rất bức xúc, nhiều lần kiến nghị nhưng mọi việc vẫn như cũ.

    Một công nhân (Công ty Thành An, huyện Bình Chánh, TP HCM)

    – Bà Châu Thu Hồng, Trưởng Phòng Nhân sự Công ty Thành An, trả lời: Hồi đầu năm, để đưa người lao động vào nền nếp, công ty đề ra cách phạt tiền nhằm răn đe. Sau một thời gian thực hiện, công ty đã nhận được nhiều kiến nghị của công nhân yêu cầu xem xét lại; mặt khác, xét thấy cách làm này không đúng luật nên ban giám đốc quyết định hủy bỏ. Thông báo về việc hủy bỏ được niêm yết trên bản tin của công ty từ ngày 10-6.

    Trích nld.com.vn

  • Nghỉ hưu năm 2018, sẽ tính lương thế nào?

    Nghỉ hưu năm 2018, sẽ tính lương thế nào?

    Tôi nghe báo đài nói luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có sửa đổi về cách tính lương hưu và áp dụng từ ngày 1/1/2016. Tôi sẽ nghỉ hưu vào năm 2018, vậy cách tính lương hưu của tôi thế nào? Hoàng Văn Chiến –TP Hồ Chí Minh

    luong-huu_SHYW

    Trả lời

    Luật BHXH 2014 số 58/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016; Cách tính lương hưu theo điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội 2014

    1. Từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành cho đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật này tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.

    2. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật này và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:

    a) Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;

    b) Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.

    Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định tại điểm a và điểm b khoản này được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.

    Về cách tính lương hưu, Luật quy định lộ trình tăng dần thời gian đóng BHXH để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75%, tiến tới người lao động có thời gian đóng BHXH đủ 30 năm đối với nữ và 35 năm đối với nam thì đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75%. Sửa đổi quy định giảm trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi quy định từ 1% lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định.

    Sửa đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định theo hướng có lộ trình tiến tới tính bình quân toàn bộ thời gian đóng (bình quân của 5 năm, 6 năm, 8 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm hoặc của toàn bộ thời gian tùy thuộc vào thời điểm bắt đầu tham gia BHXH).

    Điều kiện về thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu là phải đóng BHXH từ đủ 20 năm trở lên. Anh nghỉ hưu năm 2018, nếu đủ 20 năm đóng BHXH được tính 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm tương ứng với 16 năm đóng bảo hiểm xã hội sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam.

    Theo laodong.com.vn

  • 87,45% ĐBQH đồng ý sửa quy định hưởng BHXH một lần

    87,45% ĐBQH đồng ý sửa quy định hưởng BHXH một lần

    Kết quả tổng hợp Phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội về chủ trương Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc thực hiện chính sách hưởng BHXH một lần đối với người lao động sau một năm nghỉ việc cho thấy đa số đại biểu đồng ý với chủ trương này.

    khai-mac-quoc-hoi-1434283150011

    Ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Trưởng Đoàn thư ký kỳ họp thứ 9 vừa gửi đến các ĐB Quốc hội kết quả tổng hợp Phiếu xin ý kiến ĐB Quốc hội về chủ trương Quốc hội ban hành Nghị quyết tại kỳ họp thứ 9 về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội (BHXH) một lần đối với người lao động sau một năm nghỉ việc – Báo Hải quan đưa tin.
    Trước đó, ngày 21/5 Quốc hội đã nghe báo cáo về Điều 60 của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014. Đến ngày 27/5 Quốc hội thảo luận tại hội trường Điều 60 của Luật bảo hiểm xã hội 2014 (có hiệu lực vào 1/1/2016), trong đó có quy định người tham gia BHXH không được hưởng BHXH một lần như Luật hiện hành. Sau phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đã kết luận sẽ gửi phiếu thăm dò ý kiến tới các đại biểu.
    Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngày 4/6/2015, Đoàn thư ký kỳ họp đã gửi Phiếu xin ý kiến ĐB Quốc hội chủ trương Quốc hội ban hành Nghị quyết tại kỳ họp thứ 9 về việc người lao động sau một năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội và có yêu cầu nhận bảo hiểm xã hội một lần thì được hưởng BHXH một lần.

    Kết quả thu về với 470 phiếu hợp lệ, trong đó 411 phiếu đồng ý (bằng 87,45 % số phiếu thu về hợp lệ), không đồng ý là 48 phiếu (bằng 10,21% số phiếu thu về hợp lệ). 11 ĐB có ý kiến khác (bằng 2,34 % số phiếu thu về hợp lệ).

    Như vậy, hầu hết ý kiến ĐB tán thành việc Quốc hội ban hành một nghị quyết ngay tại kỳ họp này nhằm giải quyết nhu cầu của phần đông người lao động.

    Trên cơ sở kết quả tổng hợp Phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, đại diện Thường trực Ủy ban pháp luật, Lãnh đạo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đại diện Văn phòng Chính phủ xây dựng, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết về việc “thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động sau một năm nghỉ việc”.
    * Liên quan đến vấn đề này, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2015, Chính phủ đã thảo luận về báo cáo của các Bộ, cơ quan chức năng đối với kiến nghị của công nhân về Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 (có hiệu lực vào 1/1/2016), trong đó có quy định người tham gia BHXH không được hưởng BHXH một lần như Luật hiện hành.

    Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, UBND TP. HCM đã kiến nghị việc sửa đổi Luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn và nguyện vọng của công nhân.

    Sau khi nghe báo cáo và các ý kiến thảo luận, Chính phủ đã nhất trí với kiến nghị của các Bộ, cơ quan, địa phương nêu trên và kiến nghị Quốc hội sửa đổi Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 theo hướng nếu người lao động không đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu thì được hưởng BHXH một lần.

    Theo bhxhtphcm

  • Sài Gòn Tâm Điểm tham gia Đại hội Đại lý thuế lần 1 tại TP.HCM

    Sài Gòn Tâm Điểm tham gia Đại hội Đại lý thuế lần 1 tại TP.HCM

    Ngày 06/06/2015 vừa qua, SGTĐ rất hân hạnh tham gia Đại hội Đại lý thuế lần 1 với vai trò là Thành viên sáng lập của CLB Đại lý thuế.

    SGTĐ là đơn vị cung cấp phần mềm kế toán dành cho tất cả loại hình doanh nghiệp vì thế việc cập nhật những quy định mới về chính sách kế toán, chính sách về thuế là điều không thể thiếu trong hoạt động của mình. Với mục tiêu là cung cấp công cụ quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả và theo quy định pháp luật!

    IMG_2484

    Sài Gòn tâm Điểm hân hạnh là nhà tài trợ bạc cho Đại hội Đại lý thuế lần 1

    IMG_2462

    Sài Gòn Tâm Điểm cung cấp sản phẩm và công cụ quản lý hiệu quả nhất!

  • Giảm 50% lượng người phải quyết toán thuế TNCN

    Giảm 50% lượng người phải quyết toán thuế TNCN

    (Chinhphu.vn) – Nhờ những giải pháp cải cách thủ tục hành chính thuế và của Bộ Tài chính, số lượng cá nhân tự quyết toán thuế năm 2014 đã giảm hơn 50%, chỉ còn 49.000 người.

    DSC_0074

    Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tài chính, ngày 26/3, Tổng cục Thuế đã có công văn gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố yêu cầu đẩy mạnh hỗ trợ tối đa cho người nộp thuế quyết toán thuế thu nhập cá nhân năm 2014.
    Theo quy định tại Luật thuế Thu nhập cá nhân hiện hành, có 10 khoản thu nhập phải nộp thuế thu nhập cá nhân như chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán, chuyển nhượng bất động sản, quà biếu quà tặng, trúng thưởng xổ số, đầu tư vốn, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cho thuê nhà, cá nhân làm công ăn lương…

    Theo quy định của Luật, tổ chức cá nhân chi trả thu nhập sẽ khấu trừ tại nguồn, chỉ có 2 đối tượng phải quyết toán là: người nộp thuế qua tính toán trong năm được hoàn lại thuế thu nhập cá nhân và người nộp thuế phải nộp thêm.

    Bộ Tài chính đã chỉ đạo Tổng cục Thuế cải cách thủ tục hành chính và giảm số lượng người nộp thuế phải quyết toán thuế thu nhập cá nhân.

    Theo thống kê đến thời điểm 31/3/2015, chỉ còn 49.000 cá nhân tự quyết toán, so với kỳ quyết toán năm 2013 giảm trên 50%, chủ yếu là những cá nhân được hoàn thuế.

    Các đối tượng như đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán hàng đa cấp, hộ kinh doanh, hộ cho thuê nhà… không phải quyết toán thuế nữa.

    Đại diện Tổng cục Thuế cũng khuyến nghị cần đẩy mạnh hình thức cá nhân, đặc biệt là đối tượng làm công ăn lương, ủy quyền quyết toán cho doanh nghiệp sử dụng lao động. Với số lượng 97,5% doanh nghiệp hiện nay đã kê khai thuế điện tử thì hình thức ủy quyền này sẽ rất thuận lợi và phù hợp.

  • Lợi trước mắt, Hại lâu dài

    Lợi trước mắt, Hại lâu dài

    Việc hưởng trợ cấp BHXH một lần có thể giúp giải quyết khó khăn trước mắt nhưng về lâu dài sẽ bất lợi cho người lao động và tạo gánh nặng cho xã hội. Ông Nguyễn Đăng Tiến, Phó Giám đốc BHXH TP HCM, nhấn mạnh điều này khi trao đổi về những thay đổi của Luật BHXH.

    Bảo hiểm xã hội

    Phóng viên: Những ngày qua, nhiều lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn TP HCM bày tỏ lo lắng về việc Luật BHXH sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 1-1-2016) hủy bỏ quy định về việc hưởng trợ cấp BHXH một lần (sau 1 năm nghỉ việc) đối với người lao động(NLĐ) có thời gian đóng BHXH dưới 20 năm. Việc này sẽ thu hẹp quyền lợi của NLĐ, thưa ông?

    – Ông Nguyễn Đăng Tiến: Từ năm 2007, do nhận thức chưa đầy đủ về chính sách BHXH nên tại TP HCM, số lượng lao động tham gia BHXH dưới 20 năm, sau 1 năm nghỉ việc, làm thủ tục hưởng trợ cấp BHXH một lần khá lớn (khoảng 120.000 trường hợp/năm). Việc này giúp NLĐ giải quyết một phần khó khăn trước mắt nhưng về lâu dài sẽ bất lợi cho NLĐ và tạo gánh nặng cho xã hội khi NLĐ không đủ điều kiện hưởng hưu trí, BHYT lúc hết tuổi lao động.

    Nhận thức được vấn đề này, nhiều năm qua, BHXH TP HCM đã tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích chính sách BHXH đến NLĐ. Kết quả, số người xin hưởng trợ cấp một lần giảm đáng kể: năm 2013 có 69.835 người, năm 2014 giảm còn 63.628 người.

    Bên cạnh đó, những nhà lập pháp đã thấy vấn đề này từ lâu nhưng chưa thể đưa vào luật vì nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là khi thôi việc, NLĐ không có nguồn thu nhập nào khác trong thời gian tìm việc làm mới. Tuy nhiên từ năm 2009, khi mất việc, NLĐ đã có trợ cấp thất nghiệp nên việc bãi bỏ quy định nói trên là phù hợp, vừa không gây khó cho NLĐ vừa hướng NLĐ đến sự thụ hưởng quyền lợi hơn hẳn và lâu dài là chế độ hưu trí.

    Một thực tế khác là hiện có khá nhiều NLĐ, trong đó không ít lao động có thời gian tham gia BHXH đủ 19 năm, không muốn tham gia BHXH đến khi nghỉ hưu mà muốn hưởng chế độ một lần trước thời điểm luật mới có hiệu lực bởi cho rằng cách tính lương hưu của Luật BHXH mới gây thiệt thòi. Ý kiến của ông về vấn đề này thế nào?

    – Việc thay đổi cách tính bình quân tiền lương đóng BHXH để tính lương hưu chỉ áp dụng cho đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định, có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương này. Với những lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do nhà nước quy định có thời gian tham gia BHXH 19 năm, có nghĩa đã tham gia BHXH từ năm 1995 hoặc 1996 thì cách tính lương hưu cũng không thay đổi, tức là tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH trong 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

    Còn NLĐ có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì không thay đổi, vẫn là bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian tham gia BHXH. Khi đủ điều kiện hưởng hưu trí, NLĐ sẽ có nhiều quyền lợi: Được nhận lương hưu hằng tháng, được hưởng BHYT; trợ cấp tử tuất, mai táng…

    Bên cạnh đó, Chính phủ còn quy định việc điều chỉnh lương hưu trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế để bảo đảm quyền lợi cho người hưu trí. Thiết nghĩ, NLĐ nên cân nhắc trước khi quyết định để tránh ảnh hưởng quyền lợi về sau.

    Bảo đảm công bằng giữa đóng và hưởng

    Đối với ý kiến cho rằng quy định mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Luật Việc làm (có hiệu lực từ ngày 1-1-2015) đã thu hẹp quyền lợi của NLĐ. Cụ thể trước đây, NLĐ có thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đủ 3 năm sẽ được hưởng 6 tháng trợ cấp nhưng nay để hưởng mức này phải có 6 năm tham gia BHTN, ông Nguyễn Đăng Tiến giải thích: Việc điều chỉnh này ở Luật Việc làm là nhằm bảo đảm sự công bằng giữa đóng và hưởng. Với quy định cũ, dù NLĐ có thời gian đóng BHTN chênh lệch rất nhiều nhưng mức hưởng lại bằng nhau. Ví dụ: người có đủ 36 tháng với người có 71 tháng đóng BHTN có mức hưởng như nhau là 6 tháng.

    Theo bhxhtphcm

  • Lúng túng trong chi trả trợ cấp thất nghiệp

    Lúng túng trong chi trả trợ cấp thất nghiệp

    Chi trả trợ cấp thất nghiệp (TCTN) cho NLĐ tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được quy định trong Luật Việc làm (có hiệu lực từ ngày 1.1.2015) có nhiều thay đổi so với những quy định trước đây. Nhưng đến nay, vẫn chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể, nên việc chi trả TCTN cho NLĐ gặp nhiều lúng túng.

    27.2.nld.lungtungtrongchitratrocapthatnghiep

    NLĐ thiếu thông tin
    Chị Trịnh Thị Lệ Quyên đang làm thủ tục để hưởng TCTN tại Trung tâm GTVL TPHCM (số 153 Xô Viết Nghệ Tĩnh, Q.Bình Thạnh, TPHCM) cho biết, chị nghỉ việc và đã nộp hồ sơ hưởng TCTN từ cuối tháng 12.2014. Hiện chị đã xin được việc làm mới, nên đến làm thủ tục nhận TCTN một lần. Mọi thủ tục theo yêu cầu để được nhận TCTN một lần đã hoàn tất và chờ thông báo nhận tiền.
    Trường hợp của anh Nguyễn Hoàng Nhân (Thủ Đức) cũng tương tự. Anh Nhân đã làm thủ tục hưởng TCTN từ cuối tháng 11.2014. Đến nay anh cũng đã xin được việc làm mới và đang làm thủ tục để hưởng TCTN một lần. Tuy nhiên theo anh Nhân, hiện vẫn chưa biết kết quả có được nhận số tiền TCTN một lần không? “Khi đến đăng ký mới biết, theo quy định của Luật Việc làm, trường hợp của tôi chưa chắc đã được nhận TCTN một lần”- anh Nhân lo lắng.
    Theo quy định mới, NLĐ tham gia BHTN từ đủ 12 tháng đến 36 tháng sẽ được hưởng 3 tháng TCTN, sau đó cứ có thêm 12 tháng tham gia BHTN sẽ được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp, nhưng tối đa không quá 12 tháng. Bên cạnh đó, cách tính mới có những thay đổi khác như: Khi NLĐ tham gia BHTN đủ 36 tháng sẽ được hưởng 3 tháng trợ cấp (trước đây là 6 tháng), tham gia đủ 72 tháng sẽ được hưởng 6 tháng (trước đây là 9 tháng). Mức hưởng TCTN từng tháng tối đa không vượt quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng hoặc mức lương cơ sở. Một số trường hợp sẽ bị tạm dừng hưởng TCTN… Tuy nhiên, theo ghi nhận của chúng tôi, thực tế nhiều NLĐ chưa biết đến các quy định này.
    Lúng túng trong chi trả
    Theo ông Nguyễn Cao Thắng – Phó GĐ Trung tâm Giới thiệu việc làm (TTGTVL) TPHCM – từ khi có Luật Việc làm, trung tâm tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho nhân viên tiếp cận với những quy định mới trong việc chi trả TCTN cho NLĐ. Nhưng hiện trung tâm đang gặp một số vướng mắc do đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể việc thực hiện BHTN mới. Chính điều này, nên việc chi trả TCTN cho NLĐ vẫn còn rất lúng túng trong một số trường hợp.
    Cụ thể, quy định trước đây của BHTN khi NLĐ đang hưởng TCTN, nếu tìm được việc làm mới sẽ được chi trả một lần cho toàn bộ số tiền trợ cấp còn lại chưa hưởng, sau đó thời gian đã tham gia BHTN được xoá bỏ. Nhưng theo quy định tại Luật Việc làm, khi NLĐ tìm được việc làm mới sẽ không được hưởng TCTN một lần như trước nữa. Thời gian đã tham gia BHTN nhưng chưa được hưởng TCTN sẽ được bảo lưu và tính cộng dồn. Tuy nhiên, khi thực hiện Luật Việc làm, có nhiều trường hợp NLĐ đã đăng ký hưởng TCTN từ cuối năm 2014 (trước khi Luật Việc làm có hiệu lực), đã hưởng TCTN và hiện tìm được việc mới, thì không biết sẽ phải xử lý thế nào: Tiếp tục cho hưởng một lần những tháng còn lại hay tạm ngừng hưởng để cộng dồn thời gian đã tham gia BHTN còn lại vào lần hưởng tiếp theo.
    Trước việc NLĐ đến đăng ký hưởng chế độ TCTN ngày một tăng sau kỳ nghỉ Tết Ất Mùi, ông Trần Xuân Hải – GĐ TTGTVL TPHCM – kiến nghị: “Để giải quyết nhanh, đúng và đủ chế độ cho NLĐ, trung tâm mong các cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành các quy định hướng dẫn chi tiết về BHTN để việc chi trả chế độ cho NLĐ đúng với quy định”.
    Từ ngày 24 – 26.2, đã có 6.000 NLĐ đến đăng ký thất nghiệp thuộc Trung tâm Giới thiệu việc làm (TTGTVL) TPHCM. Theo TTGTVL TPHCM, năm 2014 có 107.677 người nộp hồ sơ hưởng BHTN. Số người có quyết định hưởng TCTN một lần là 7.646 người.
    Theo bhxhtphcm
  • Cập nhật mẫu biểu theo TT 151/2014/TT-BTC – 10/10/2014

    Một số mẫu biểu được cập nhật bổ sung theo thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 11 năm 2014 như sau:

    1.- Mẫu số: 07 /GTGT – THÔNG BÁO Chuyển đổi kỳ khai thuế GTGT từ Quý sang Tháng

    2.- Mẫu số: 25/DS-TNCN – DANH SÁCH CÁ NHÂN NHẬN THU NHẬP (Dành cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập giải thể, chấm dứt hoạt động có phát sinh trả thu nhập nhưng không phát sinh khấu trừ thuế thu nhập cá nhân)

    3.- Mẫu số: 02/TNDN – TỜ KHAI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (Dùng cho doanh nghiệp kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp từ chuyển nhượng bất động sản theo từng lần phát sinh)

    4.- Mẫu số: 03/TNDN – TỜ KHAI QUYẾT TOÁN THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP

    5.- Mẫu số: 03-5/TNDN – PHỤ LỤC THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHUYỂN NHƯỢNG BẤT ĐỘNG SẢN (Kèm theo tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp số 03/TNDN)

    6.- Mẫu số: 04/TNDN – TỜ KHAI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (Dùng cho trường hợp tính thuế theo tỷ lệ % trên doanh thu)

    7.- Mẫu số: 06/TNDN – TỜ KHAI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (Dùng cho doanh nghiệp kê khai thuế TNDN từ hoạt động bán toàn bộ Công ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu dưới hình thức chuyển nhượng vốn có gắn với bất động sản)

    8.- Mẫu số: 02-1/TĐ-TNDN – Phụ lục BẢNG PHÂN BỔ SỐ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP PHẢI NỘP CỦA CƠ SỞ SẢN XUẤT THỦY ĐIỆN CHO CÁC ĐỊA PHƯƠNG (Kèm theo Tờ khai quyết toán thuế TNDN mẫu số 03/TNDN

  • Doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội không được khấu trừ thuế

    Doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội không được khấu trừ thuế

    Cục Thuế TPHCM yêu cầu các chi cục thuế các quận, huyện, các phòng thanh tra, kiểm tra thuộc Cục Thuế thực hiện: Phối hợp với LĐLĐ các địa phương, cơ quan BHXH các địa phương cùng cấp tổ chức đôn đốc các DN thực hiện nộp BHXH, kinh phí CĐ đúng hạn định, quy định của pháp luật. Cục Thuế TP cũng yêu cầu các đơn vị trực thuộc xem xét các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đối với khoản chi phí trích trước về BHXH, kinh phí CĐ theo kỳ hạn, theo chu kỳ mà hết kỳ hạn, hết chu kỳ chưa chi hoặc chi không hết theo quy định tại điểm 2.18, mục IV, phần C, Thông tư 130/2008/TT-BTC và khoản 2.18, Điều 6, Thông tư 123/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính khi thực hiện thanh tra, kiểm tra tại DN.

    Trao đổi với PV, bà Lê Thị Thu Hương – Phó Cục trưởng Cục Thuế TP – cho biết, ngoài Công văn 7040, lãnh đạo Cục Thuế TP đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc khi phải phối hợp với tổ chức CĐ, cơ quan BHXH cùng cấp để đôn đốc các đơn vị nộp BHXH và kinh phí CĐ. Khi quyết toán thuế TNDN, kinh phí CĐ và BHXH là chi phí phải nộp nhưng các đơn vị chưa nộp thì cơ quan thuế sẽ tạm “treo” lại, trong vòng 1 năm đơn vị đó phải nộp, nếu không thực hiện thì cơ quan thuế sẽ xuất toán các khoản đó ra khỏi chi phí hợp lý trong đợt quyết toán liền kề.
    Tăng cường bảo vệ quyền lợi người lao động

    Ông Cao Văn Sang – Giám đốc BHXH TP – cho biết, ngoài các biện pháp mà cơ quan này đang thực hiện như phối hợp, đề nghị thanh tra, khởi kiện các đơn vị nợ BHXH ra tòa, thì việc thực hiện theo tinh thần Công văn 7040/CT-TT1 là giải pháp quyết liệt, góp phần giải quyết nạn các DN nợ BHXH, tăng cường bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của NLĐ.
    Thực tế, tại quy định về khoản đóng BHXH, BHYT, BHTN, kinh phí CĐ cho NLĐ được coi là chi phí hợp lý khi khấu trừ thuế TNDN đã được quy định tại Luật Thuế TNDN. Tuy nhiên, thời gian qua, khi quyết toán thuế TNDN, nhiều DN vẫn báo cáo với cơ quan thuế để khấu trừ khoản này nhưng lại không đóng cho cơ quan BHXH, không nộp kinh phí CĐ. Chính vì thế, lâu nay trong cả nước mặc dù DN nợ BHXH, không đóng kinh phí CĐ, nhưng khi khai báo để khấu trừ thuế TNDN họ vẫn được các cơ quan thuế “vô tư” thừa nhận và trích trừ cho DN.
    Ông Sang đánh giá, chỉ đạo của Cục Thuế TPHCM là rất cụ thể và hoàn toàn phù hợp pháp luật, tạo thuận lợi hơn cho cơ quan BHXH trong thực thi công vụ. Trong thời gian tới, cơ quan BHXH TPHCM sẽ tích cực bám sát tinh thần của Công văn 7040/CT-TT1, đôn đốc các BHXH quận, huyện, phối hợp chặt chẽ với các phòng thanh tra, kiểm tra của ngành thuế yêu cầu DN thực hiện.

    Bà Nguyễn Thị Thu – Chủ tịch LĐLĐ TPHCM – cho biết, Công văn 7040/CT-TT1 rất thuận lợi và hỗ trợ nhiều cho tổ chức CĐ trong việc thu kinh phí CĐ. Bởi nếu các đơn vị, DN không đóng BHXH, kinh phí CĐ thì sẽ khó khăn cho việc quyết toán thuế TNDN vào cuối năm. Sắp tới LĐLĐ TP sẽ ký kết liên tịch với Cục Thuế TPHCM về việc phối hợp thực hiện để thu tốt hơn kinh phí CĐ.

    Phó Chủ tịch UBND TPHCM Hứa Ngọc Thuận đã giao LĐLĐ TP phối hợp với Sở LĐTBXH TP, Kho bạc Nhà nước TP và Cục Thuế TP ban hành văn bản liên tịch chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, DN và các tổ chức khác trên địa bàn TP là đối tượng đóng kinh phí CĐ theo khoản 2, Điều 26 của Luật Công đoàn 2012 và Quy định tạm thời về thu, phân cấp thu, sử dụng, quản lý nguồn thu kinh phí CĐ ban hành kèm theo Quyết định số 170/QĐ-TLĐ ngày 9.1.2013 của Tổng LĐLĐ Việt Nam, đồng thời có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra việc thực hiện trích nộp kinh phí CĐ của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, DN trên địa bàn TP.

  • Vợ sinh con, chồng được nghỉ 5-7 ngày

    Vợ sinh con, chồng được nghỉ 5-7 ngày

    Theo dự thảo Luật bảo hiểm xã hội sửa đổi, lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh thường được nghỉ việc 5 ngày, vợ sinh mổ được nghỉ 7 ngày.

    Ngày 20/9, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội được công bố để lấy ý kiến nhân dân. Bên cạnh quy định thời gian hưởng chế độ khi sinh con dành cho lao động nữ là nghỉ 6 tháng thì dự thảo cũng quy định thời gian nghỉ dành cho người chồng.

    Theo đó, lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 5 ngày làm việc kể từ 30 ngày đầu vợ sinh con. Đối với trường hợp vợ sinh mổ thì chồng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 7 ngày làm việc không kể ngày nghỉ, lễ, Tết.

    Dự thảo luật sửa đổi cũng quy định trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới hai tháng tuổi bị chết thì mẹ được nghỉ việc ba tháng tính từ ngày sinh con. Nếu con từ hai tháng tuổi trở lên bị chết thì mẹ được nghỉ việc một tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định.

    nghi-sinh-con-3163-1379763147

    Theo dự thảo luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi, người chồng sẽ được nghỉ làm việc 5 – 7 ngày khi vợ sinh con. Ảnh: Thiên Chương.

    Đối với trường hợp người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi. Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần bằng 2 tháng tiền lương cơ sở cho mỗi con. Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng 2 tháng tiền lương cơ sở cho mỗi con.

    Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm cho mỗi con được tính theo số ngày chăm sóc, tối đa là hai mươi ngày làm việc nếu con dưới ba tuổi, tối đa là mười lăm ngày làm việc nếu con từ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi.

    Trước đó, thảo luận về dự thảo Bộ luật lao động sửa đổi ngày, đại biểu Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp của Quốc hội cho rằng, phải tính đến việc cho chồng nghỉ chăm sóc vợ đẻ vì hiện nhiều nước có quy định này.

    Theo ông Thảo, khi vợ sắp đẻ chồng đã phải lo tìm kiếm osin với tiền công tối thiểu 3 triệu đồng một tháng, chưa kể tiền ăn trong khi nhiều ông bố trẻ mới ra trường, thu nhập chưa cao. “Thà quy định cho nghỉ trong vòng một tháng còn hơn là không quy định khiến người ta phải xin nghỉ, rồi có khi trốn việc để chăm vợ và bị kiểm điểm”, đại biểu này chia sẻ.

    Đại biểu Trần Thị Quốc Khánh cũng đề nghị phải bổ sung quy định chồng được nghỉ khi vợ sinh con vào dự án bộ Luật lao động sửa đổi và khi hai vợ chồng nhận trẻ sơ sinh làm con nuôi thì chồng cũng phải được nghỉ bởi Luật bình đẳng giới quy định điều này.

    Theo dự kiến, dự thảo Luật bảo hiểm xã hội sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 giữa năm 2014, thông qua cuối năm 2014 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2015, thay thế Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006.

    Theo vnexpress.vn

  • Chế độ thai sản đối với trường hợp nhận con nuôi

    Chế độ thai sản đối với trường hợp nhận con nuôi

    (Chinhphu.vn) – Theo hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, lao động nữ nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi sẽ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.

    Giải đáp vướng mắc về việc giải quyết chế độ thai sản đối với người lao động nhận con nuôi, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có ý kiến như sau:

    Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ 1/5/2013. Theo quy định tại Điều 159 Bộ luật Lao động thì thời gian nghỉ việc khi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý, thực hiện các biện pháp tránh thai, chăm sóc con dưới 7 tuổi ốm đau, nuôi con dưới 6 tháng tuổi, lao động nữ được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

    Như vậy, kể từ 1/5/2013, lao động nữ nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi sẽ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi. Đối với lao động nam nhận con nuôi vẫn thực hiện theo Điều 32 Luật Bảo hiểm xã hội.

  • Thế nào là hóa đơn bất hợp pháp? Cách phân biệt hóa đơn hợp pháp và hóa đơn bất hợp pháp?

    Thế nào là hóa đơn bất hợp pháp? Cách phân biệt hóa đơn hợp pháp và hóa đơn bất hợp pháp?

    Các bạn kế toán, nhất là kế toán mới ra trường thường khó khăn để phân biệt được thế nào là hóa đơn hợp pháp ? thế nào là hóa đơn bất hợp pháp ? thế nào là sử dụng hóa đơn bất hợp pháp ? Kế toán khi thực hiện các nghiệp vụ về hóa đơn chứng từ cần nắm rõ các định nghĩa này để tránh trường hợp vô tình vi phạm sử dụng hóa đơn bất hợp pháp mà mình không hề hay biết. Sagonpoint xin chia sẻ cách phân biệt hóa đơn bất hợp pháp và hóa đơn hợp pháp theo thông tư số 64/2013/TT-BTCT vi pham hoa don chung tu

    Hóa đơn hợp pháp là gì?

    Hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành hoặc hoá đơn do Doanh nghiệp tự tạo theo quy định của Chỉnh phủ và Bộ Tài chính về in ấn, phát hành, quản lý và sử dụng hoá đơn.

    Hóa đơn bất hợp pháp là gì ?

    Theo Điều 20 của thông tư số 64/2013/TT-BTCT quy định: Hóa đơn bất hợp pháp là hóa đơn giả, hóa đơn hết giá trị sử dụng, hóa đơn chưa có giá trị sử dụng

    – Hoá đơn giả là hoá đơn được in hoặc khởi tạo theo mẫu hóa đơn đã được phát hành của tổ chức, cá nhân khác hoặc in, khởi tạo trùng số của cùng một ký hiệu hoá đơn.

    – Hoá đơn chưa có giá trị sử dụng là hoá đơn đã được tạo theo hướng dẫn tại Thông tư 64/2013/TT-BTCT, nhưng chưa hoàn thành việc thông báo phát hành

    – Hoá đơn hết giá trị sử dụng là hoá đơn đã làm đủ thủ tục phát hành nhưng tổ chức, cá nhân phát hành thông báo không tiếp tục sử dụng nữa; các loại hoá đơn bị mất sau khi đã thông báo phát hành được tổ chức, cá nhân phát hành báo mất với cơ quan thuế quản lý trực tiếp; hoá đơn của các tổ chức, cá nhân đã ngừng sử dụng mã số thuế (còn gọi là đóng mã số thuế).

    Thế nào gọi là sử dụng hóa đơn bất hợp pháp ?

    Theo Điều 21 của thông tư số 64/2013/TT-BTCT

    1. Sử dụng bất hợp pháp hoá đơn là việc lập khống hoá đơn; cho hoặc bán hoá đơn chưa lập để tổ chức, cá nhân khác lập khi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (trừ các trường hợp được sử dụng hoá đơn do cơ quan thuế bán hoặc cấp và trường hợp được ủy nhiệm lập hóa đơn theo hướng dẫn tại Thông tư này); cho hoặc bán hoá đơn đã lập để tổ chức, cá nhân khác hạch toán, khai thuế hoặc thanh toán vốn ngân sách; lập hoá đơn không ghi đầy đủ các nội dung bắt buộc; lập hoá đơn sai lệch nội dung giữa các liên; dùng hoá đơn của hàng hoá, dịch vụ này để chứng minh cho hàng hoá, dịch vụ khác.

    2. Một số trường hợp cụ thể được xác định là sử dụng hóa đơn bất hợp pháp:

    – Hóa đơn có nội dung được ghi không có thực một phần hoặc toàn bộ.

    – Sử dụng hoá đơn của tổ chức, cá nhân khác để bán ra, để hợp thức hoá hàng hoá, dịch vụ mua vào không có chứng từ hoặc hàng hoá, dịch vụ bán ra để gian lận thuế, để bán hàng hoá nhưng không kê khai nộp thuế.

    – Sử dụng hoá đơn của tổ chức, cá nhân khác để bán hàng hoá, dịch vụ, nhưng không kê khai nộp thuế, gian lận thuế; để hợp thức hàng hoá, dịch vụ mua vào không có chứng từ. – Hoá đơn có sự chênh lệch về giá trị hàng hoá, dịch vụ hoặc sai lệch các tiêu thức bắt buộc giữa các liên của hoá đơn.

    – Sử dụng hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ mà cơ quan thuế, cơ quan công an và các cơ quan chức năng khác đã kết luận là sử dụng bất hợp pháp hóa đơn.

  • Thời gian hưởng chế độ ốm đau tính theo số năm đóng BHXH

    Thời gian hưởng chế độ ốm đau tính theo số năm đóng BHXH

    Bà Lưu Thiên Hương làm việc trong cơ quan Nhà nước, đóng bảo hiểm xã họi được 20 năm. Vừa qua bà Hương bị viêm dây thanh quản, theo chỉ định của bác sĩ bà phải mổ dây thanh quản.
    Bà Hương muốn được biết, sau khi mổ thời gian nghỉ để điều trị bệnh của bà được tính như thế nào?

    Ông Nguyễn Hùng Cường – Phó Trưởng ban Ban Thực hiện chính sách BHXH (BHXH Việt Nam) trả lời:

    Theo quy định của pháp luật về BHXH hiện hành thì người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong điều kiện bình thường bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở y tế được hưởng chế độ BHXH.

    Thời gian hưởng chế độ ốm đau tối đa trong một năm tính theo ngày làm việc và theo số năm đã đóng BHXH.

    Cụ thể: 30 ngày nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên.

    Trường hợp mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành (hiện nay quy định tại Thông tư số 34/2013/TT-BYT ngày 28/10/2013 của Bộ Y tế) thì được hưởng tối đa không quá 180 ngày trong một năm và hết thời hạn 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn .

    Ngoài ra, trường hợp người lao động sau thời gian hưởng chế độ ốm đau theo quy định mà sức khoẻ còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tối đa 10 ngày nếu ốm đau do mắc bệnh cần chữa trị dài ngày; tối đa 7 ngày nếu phải phẫu thuật và bằng 5 ngày đối với các trường hợp khác.

    Với quy định nêu trên, đề nghị bà Lưu Thiên Hương đối chiếu thực tế về thời gian đóng BHXH, số ngày nghỉ ốm đã nghỉ trong năm và bệnh cần điều trị theo kết luận của cơ sở y tế (xem có thuộc bệnh cấn chữa trị dài ngày) để xác định thời gian được tính hưởng BHXH khi điều trị bệnh.

    Theo Chinhphu.vn

  • Tăng tuổi nghỉ hưu nam lên 62, nữ 60 từ năm 2016

    Tăng tuổi nghỉ hưu nam lên 62, nữ 60 từ năm 2016

    TT – Tại cuộc họp báo thường kỳ quý 2-2014 của Bảo hiểm xã hội VN ngày 12-5, trưởng ban thu (Bảo hiểm xã hội VN) Trần Đình Liệu cho biết Luật bảo hiểm xã hội sửa đổi đang chuẩn bị đệ trình Quốc hội sẽ sửa đổi một số điểm đáng chú ý.

    tuổi nghỉ hưu
    tuổi nghỉ hưu

    Nhiều người đồng tình thí điểm tăng tuổi hưu ở đối tượng quản lý, chuyên gia… Trong ảnh: bác sĩ Phan Thanh Hải (65 tuổi, giám đốc Trung tâm Chẩn đoán y khoa Medic, TP.HCM) siêu âm cho bệnh nhân – Ảnh: N.C.T.

    Trong đó trước mắt sẽ quy định lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức từ năm 2016 trở đi, từ năm 2020 thực hiện tăng tuổi nghỉ hưu với các nhóm còn lại theo hướng mỗi năm tăng thêm bốn tháng tuổi cho đến khi đạt 62 tuổi với nam và 60 tuổi với nữ. Riêng lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại, tuổi nghỉ hưu giữ như hiện hành.

    Lan Anh – tuoitre.vn

  • Quy định tham gia BHTN

    Quy định tham gia BHTN

    Câu hỏi: Đơn vị tôi có 06 lao động hợp đồng không xác định thời hạn, không tham gia BHTN. Khi tuyển nhân viên đã có BHTN từ đơn vị khác chuyển về, phải giải quyết ra sao?

    Theo Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội thất nghiệp, thì đơn vị sử dụng dưới 10 lao động không thuộc đối tượng đóng BHTN. Do vậy, NLĐ mới chuyển về đơn vị của bạn cũng không thuộc đối tượng tham gia BHTN.