Tác giả: Le Dung

  • Xung quanh vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân

    Xung quanh vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân

    Các nghị định và thông tư hướng dẫn cách tính và nộp thuế  thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đã được Bộ Tài chính ban hành và tập huấn,  phổ biến đến các đối tượng doanh nghiệp và người dân, tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà người trực tiếp tham gia tính thuế chưa nắm rõ. Một số câu hỏi bạn đọc thắc mắc đến các chuyên gia thuế để được giải thích rõ ràng, và để bạn đọc gần xa quan tâm cũng có thể nắm hiểu rõ hơn.

    Hoi_thue_TNDN_TNCN

    Ảnh minh họa. Nguồn: internet

    1. Câu hỏi của bạn đọc tại hòm thư điện tử thuytran.kmp@gmail.com:

    Hỏi: “Các anh chị cho em hỏi, khi làm quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) năm 2013 đơn vị em sẽ phải tính thuế suất như thế nào? (20% cho cả năm hay là 25% x lợi nhuận (LN) của 6 tháng đầu năm + 20% x LN của 6 tháng cuối năm). Em đang làm báo cáo tài chính mà không biết xử lý như thế nào, mong các anh chị giúp em với. Xin trân trọng cảm ơn!”

    Trả lời:
    Câu hỏi của Bạn chưa nêu rõ DN của Bạn có quy mô doanh số thuộc loại nào, vì vậy, xin được trả lời mang tính nguyên tắc như sau:

    Theo quy định của Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 (Khoản 6, Điều 1 và Khoản 2, Điều 2) thì DN có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất 20%. Quy định này có hiệu lực kể từ 01/07/2013. Nội dung này được quy định chi tiết tại Nghị định 92/2013/NĐ-CP ngày 13/08/2013 và được hướng dẫn tại Thông tư số 141/2013/TT-BTC ngày 16/10/2013 của Bộ Tài chính.

    Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp DN của Bạn thuộc loại DN có mức doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng và được áp dụng mức thuế suất 20% từ ngày 01/07/2013 thì việc kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 141/2013/TT-BTC (Điều 1, Chương I) và Công văn số 3693/TCT-CS của Tổng cục thuế hướng dẫn thực hiện quyết toán thuế năm 2013.

    Nếu DN của Bạn thuộc loại DN có mức doanh thu năm trên 20 tỷ đồng thì áp dụng mức thuế suất 25%. Kể từ 01/01/2014 thì sẽ áp dụng mức thuế suất phổ thông 22% và kể từ ngày 01/01/2016 sẽ áp dụng thuế suất phổ thông là 20%.

    2. Bạn đọc ở hòm thư thoang_ac@yahoo.com.vn cũng có câu hỏi như sau:

    Hỏi: “Tại Thông tư sô 111/2013/TT-BTC  (Mục c.2.3, Tiết c.2, Điểm c, Khoản 1, Điều 9) quy định về việc giảm trừ gia cảnh. Vậy, nếu tôi kê khai đăng ký người phụ thuộc tại thời điểm tháng 10/2013, nhưng nghĩa vụ nuôi dưỡng thì bắt đầu từ tháng 05/2013 (theo Giấy khai sinh, là con ruột) thì khi quyết toán thuế thu nhập cá nhân (TNCN) năm 2013 tôi được giảm trừ từ tháng 5/2013 hay tháng 10/2013?”

    Trả lời:
    Điểm c.2 khoản 1 Điều 9 TT 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 hướng dẫn về thuế TNCN quy định: Khi người nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc sẽ được cơ quan thuế cấp mã số thuế cho người phụ thuộc và được tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể từ khi đăng ký. Trường hợp người nộp thuế chưa tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc trong năm tính thuế thì được tính giảm trừ cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng khi người nộp thuế thực hiện quyết toán thuế và có đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc.

    Căn cứ quy định nêu trên anh/chị được tạm tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc kể từ khi đăng ký và khi quyết toán thuế anh/chị được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng.

    3. Bạn đọc ở hòm thư Hoiht71@gmail.com có hỏi:

    Hỏi: “Theo Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 đã bãi bỏ Điều 2,3 trong Nghị định số 92/2013/NĐ-CP rồi. Cụ thể DN áp dụng thuế suất 20% được tính kể từ ngày 01/01/2014. Theo hướng dẫn trên được tính từ ngày 01/7/2013. Vậy có mâu thuẫn không?”.

    Trả lời:
    Điều này không mâu thuẫn vì: Nghị định số 92/2013/NĐ-CP áp dụng trong thời gian từ ngày 1/7/2013 đến ngày 31/12/2013. Nghị định 218/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/02/2014 và áp dụng cho kỳ tính thuế từ năm 2014 trở đi.

    4. Bạn đọc tại hòm thư acuongnp@gmail.com có thắc mắc như sau:

    Hỏi: “Chào Ban biên tập. Em đang là công nhân thời vụ cho 1 công ty liên doanh. Mỗi tháng em chỉ có thu nhập là 2.000.000đồng. Công ty yêu cầu em phải đóng thuế thu nhập cá nhân hàng tháng là 10% tương đương là 200.000đồng. Em xin hỏi ban biên tập, điều đó có đúng với bộ luât lao động hiện hành hay không?”.
    Trả lời:
    Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế TNCN quy định:

    Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại Điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.

    Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.

    Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế.

    Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.

    Trên đây là những tư vấn của chuyên gia thuế về các vấn đề bạn đọc hỏi. Chúng tôi cũng nhận được một số câu hỏi tương tự, bạn đọc có thể tham khảo theo hướng dẫn của chuyên gia thuế như trên.
    Mọi vấn đề liên quan đến thuế TNDN và thuế TNCN đều đã được quy định khá rõ ràng trong các văn bản chính sách, chế độ mới về các sắc thuế, bạn đọc có thể nghiên cứu kỹ tại các văn bản đó và có thể hỏi qua số điện thoại, đường dây nóng của cơ quan thuế tại các cục thuế địa phương nơi sinh sống để được giải đáp cụ thể, kịp thời.

    Dương Thị Ninh – Vụ Chính sách Thuế – Bộ Tài chính – tapchitaichinh.vn

  • Không sử dụng hóa đơn xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hóa

    Không sử dụng hóa đơn xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hóa

    Ngày 17/01/2014 Chính Phủ ban hành Nghị định số 04/2014/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 của Chính Phủ về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì kể từ ngày 01/03/2014 khi doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng (đối với Doanh nghiệp kê khai thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ) hoặc hóa đơn bán hàng (đối với Doanh nghiệp kê khai thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp).

    Nghị định số 04/2014/NĐ-CP cũng quy định trước khi đặt in hóa đơn lần đầu, tổ chức có hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp (trừ đối tượng đủ điều kiện được tạo hóa đơn đặt in) phải gửi đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp văn bản đăng ký sử dụng hóa đơn đặt in. Trong thời hạn 5 ngày làm việc cơ quan thuế quản lý trực tiếp phải có ý kiến về việc đăng ký sử dụng hóa đơn đặt in của doanh nghiệp.

    Nguồn Internet

  • Chính sách BHTN (Bảo hiểm thất nghiêp): Không cào bằng

    Chính sách BHTN (Bảo hiểm thất nghiêp): Không cào bằng

    Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) thực hiện việc tiếp nhận, giải quyết hướng BHTN cho người lao động kể từ ngày 1/1/2010. Tuy nhiên, thực tế, việc xác định người lao động thuộc đối tượng tham gia BHTN còn gặp khó khăn, bên cạnh đó, chế độ BHTN cũng đã bộc lộ một số kẽ hở dễ khiến người lao động có thể “lách luật” lợi dụng.

    chi tra bao hiem that nghiep_68290

    Kinh tế suy thoái, nhiều doanh nghiệp (DN) giải thể, phá sản hoặc thu hẹp sản xuất – kinh doanh, người lao động (NLĐ) rơi vào tình trạng thất nghiệp, trong bối cảnh ấy, chính sách BHTN đã kịp thời bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ mất việc làm. Bên cạnh đó, chính sách BHTN còn có các biện pháp tích cực như tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề giúp họ sớm quay lại thị trường lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

    Những tác động tích cực mà chính sách BHTN đem lại là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm thực hiện, chính sách này cũng bộc lộ một số bất cập cần khắc phục. Ông Lê Quang Trung – Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – LĐTB&XH)- cho rằng, việc xác định người lao động thuộc đối tượng tham gia BHTN còn gặp khó khăn, đặc biệt là các chức danh lãnh đạo trong các công ty TNHH MTV, DN có vốn nhà nước… do các quy định về đối tượng này thiếu cụ thể, chưa rõ ràng. Bên cạnh đó, đối với những trường hợp NLĐ làm việc theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định với thời gian ngắn (dưới 12 tháng) hoặc làm việc trong các đơn vị có sử dụng dưới 10 lao động là những người có nguy cơ bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc thì chưa thuộc đối tượng tham gia BHTN theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

    Đại diện Sở LĐTB&XH Đà Nẵng: Để tránh trường hợp NLĐ lách luật, cứ đóng BHTN đủ 12 tháng thì xin thôi việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng phải tính theo số năm thực tế đóng BHTN, không nên tính như cách tính trợ cấp thôi việc hiện nay. Việc người lao động đóng BHTN 12 tháng lại được trợ cấp bằng người làm đủ 36 tháng là không công bằng, cần sửa đổi.

    Ngay cả chế độ BHTN cũng đã bộc lộ một số kẽ hở dễ khiến NLĐ có thể “lách luật” lợi dụng. Việc quy định “cào bằng” đóng BHTN 12 – 36 tháng đều được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, khiến người lao động dễ lợi dụng. Đối với chế độ trợ cấp một lần, NLĐ có việc làm hoặc đi nghĩa vụ quân sự được nhận trợ cấp một lần là không hợp lý, vì mục đích của chính sách BHTN là nhằm hỗ trợ hoặc bù đắp một phần thu nhập bị thiếu hụt do mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động…

    Về phía DN, ông Phan Tấn Bình – Tổng giám đốc Công ty CP Xích líp Đông Anh – cho rằng, gần đây đã xuất hiện tình trạng NLĐ làm đơn xin nghỉ việc để có thể lĩnh tiền trợ cấp BHTN rồi sau đó quay trở lại xin làm việc lại. “Về phía DN, chúng tôi không đồng ý nhận lại những người làm việc theo cách đó, nhưng rõ ràng, cần xem xét lại chính sách cho phù hợp”- ông Bình nói. Theo số liệu thống kê của Bảo hiểm Xã hội (Bộ LĐ-TB&XH), số tiền chi trợ cấp thất nghiệp theo tháng và một lần lớn hơn rất nhiều so với cho hỗ trợ học nghề. Chi hỗ trợ học nghề chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số chi cho các chế độ BHTN, năm 2010 là 202 triệu đồng (chiếm 0,033% so với tổng số chi BHTN; năm 2011 là 629 triệu đồng (chiếm 0,05%), năm 2012 là 2.421 triệu đồng (chiếm 0,086%). Điều này cho thấy, tâm lý của NLĐ chỉ chú trọng đến khoản trợ cấp thất nghiệp mà không quan tâm đến học nghề, tạo tâm lý “ăn xổi”, gây khó khăn cho DN trong quá trình sử dụng lao động.

    Theo Thúy Ngọc –  Báo Công thương

    Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) thực hiện việc tiếp nhận, giải quyết hướng BHTN cho người lao động kể từ ngày 1/1/2010. Tuy nhiên, thực tế, việc xác định người lao động thuộc đối tượng tham gia BHTN còn gặp khó khăn, bên cạnh đó, chế độ BHTN cũng đã bộc lộ một số kẽ hở dễ khiến người lao động có thể “lách luật” lợi dụng.
    Kinh tế suy thoái, nhiều doanh nghiệp (DN) giải thể, phá sản hoặc thu hẹp sản xuất – kinh doanh, người lao động (NLĐ) rơi vào tình trạng thất nghiệp, trong bối cảnh ấy, chính sách BHTN đã kịp thời bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ mất việc làm. Bên cạnh đó, chính sách BHTN còn có các biện pháp tích cực như tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề giúp họ sớm quay lại thị trường lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
    Những tác động tích cực mà chính sách BHTN đem lại là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm thực hiện, chính sách này cũng bộc lộ một số bất cập cần khắc phục. Ông Lê Quang Trung – Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – LĐTB&XH)- cho rằng, việc xác định người lao động thuộc đối tượng tham gia BHTN còn gặp khó khăn, đặc biệt là các chức danh lãnh đạo trong các công ty TNHH MTV, DN có vốn nhà nước… do các quy định về đối tượng này thiếu cụ thể, chưa rõ ràng. Bên cạnh đó, đối với những trường hợp NLĐ làm việc theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định với thời gian ngắn (dưới 12 tháng) hoặc làm việc trong các đơn vị có sử dụng dưới 10 lao động là những người có nguy cơ bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc thì chưa thuộc đối tượng tham gia BHTN theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
    Đại diện Sở LĐTB&XH Đà Nẵng: Để tránh trường hợp NLĐ lách luật, cứ đóng BHTN đủ 12 tháng thì xin thôi việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng phải tính theo số năm thực tế đóng BHTN, không nên tính như cách tính trợ cấp thôi việc hiện nay. Việc người lao động đóng BHTN 12 tháng lại được trợ cấp bằng người làm đủ 36 tháng là không công bằng, cần sửa đổi.

    Ngay cả chế độ BHTN cũng đã bộc lộ một số kẽ hở dễ khiến NLĐ có thể “lách luật” lợi dụng. Việc quy định “cào bằng” đóng BHTN 12 – 36 tháng đều được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, khiến người lao động dễ lợi dụng. Đối với chế độ trợ cấp một lần, NLĐ có việc làm hoặc đi nghĩa vụ quân sự được nhận trợ cấp một lần là không hợp lý, vì mục đích của chính sách BHTN là nhằm hỗ trợ hoặc bù đắp một phần thu nhập bị thiếu hụt do mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động…

    Về phía DN, ông Phan Tấn Bình – Tổng giám đốc Công ty CP Xích líp Đông Anh – cho rằng, gần đây đã xuất hiện tình trạng NLĐ làm đơn xin nghỉ việc để có thể lĩnh tiền trợ cấp BHTN rồi sau đó quay trở lại xin làm việc lại. “Về phía DN, chúng tôi không đồng ý nhận lại những người làm việc theo cách đó, nhưng rõ ràng, cần xem xét lại chính sách cho phù hợp”- ông Bình nói. Theo số liệu thống kê của Bảo hiểm Xã hội (Bộ LĐ-TB&XH), số tiền chi trợ cấp thất nghiệp theo tháng và một lần lớn hơn rất nhiều so với cho hỗ trợ học nghề. Chi hỗ trợ học nghề chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số chi cho các chế độ BHTN, năm 2010 là 202 triệu đồng (chiếm 0,033% so với tổng số chi BHTN; năm 2011 là 629 triệu đồng (chiếm 0,05%), năm 2012 là 2.421 triệu đồng (chiếm 0,086%). Điều này cho thấy, tâm lý của NLĐ chỉ chú trọng đến khoản trợ cấp thất nghiệp mà không quan tâm đến học nghề, tạo tâm lý “ăn xổi”, gây khó khăn cho DN trong quá trình sử dụng lao động.

    Theo Thúy Ngọc –  Báo Công thương