Thẻ: phần mềm tính lương

  • Điểm mới về tiền lương trong Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi)

    Điểm mới về tiền lương trong Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi)

    Lương tối thiểu vùng được xây dựng trên 5 căn cứ, hoán đổi tiêu chí nhu cầu sống tối thiểu, bóc tách các khoản khi trả lương, trả lương cho người được uỷ quyền hợp pháp…

    Dự thảo Bộ luật Luật Lao động đang được lấy ý kiến, trong đó có nhiều quy định mới về tiền lương. Đáng lưu ý là 5 tiêu chí mới để xác định, điều chỉnh lương tối thiểu (LTT).

    Về mức lương tối thiểu:

    Khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Lao động hiện hành quy định: mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động (NLĐ) và gia đình họ. Thực tiễn thực hiện quy định này trong thời gian vừa qua cho thấy việc xác định nhu cầu sống tối thiểu là rất khó định lượng vì nhu cầu sống gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu về tinh thần. Trong khi, nhiều ý kiến chuyên gia đánh giá rằng mức LTT vùng hiện nay chưa đáp ứng được đầy đủ mức sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ.

    Quá trình soạn thảo, có ý kiến đề xuất: Sửa đổi quy định mức LTT theo hướng đảm bảo “mức sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ” và đề nghị bổ sung thêm các yếu tố xác định mức LTT vùng để làm căn cứ cho Hội đồng tiền lương quốc gia nghiên cứu đề xuất. Do vậy, dự thảo Luật hiện đang thể hiện theo Phương án trên tại Điều 91, 92 và bổ sung một điều mới 92.

    Dự thảo sửa đổi đã đưa ra khái niệm ngắn gọn hơn so với Luật hiện hành về LTT: “Mức lương thấp nhất được trả cho người lao động làm công việc giản đơn trong điều kiện lao động bình thường“.

    Trong khi đó, khái niệm về LTT trong Luật Lao động 2012 (hiện hành), ngoài thông tin trên còn được bổ sung thêm nội dung: “phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ”.

    Nội dung “đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ” đã được Dự thảo chuyển thành 1 trong 5 tiêu chí mới xác định, điều chỉnh LTT gồm: Mức sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ; Tương quan giữa lương tối thiểu và mức lương phổ biến của NLĐ trên thị trường; Chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế; Quan hệ cung, cầu lao động; việc làm và thất nghiệp; Năng suất lao động; khả năng chi trả của doanh nghiệp.

    Bên cạnh đó, Dự thảo quy định người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải tham khảo ý kiến tổ chức của NLĐ tại cơ sở khi xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động và công bố công khai tại nơi làm việc. Về trả lương, Dự thảo quy định việc trả bằng tiền Đồng Việt Nam, trừ trường hợp trả cho người không cư trú, người cư trú là người nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại hối.

    Mỗi lần trả lương, NSDLĐ phải thông báo bảng kê trả lương cho NLĐ, gồm: Mức lương cơ bản; tiền trả làm thêm giờ và khoản tiền khác (nếu có); nội dung và tiền bị khấu trừ theo quy định tại của Bộ luật này.

    Quy định mới về lương

    Về tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm:

    Dự thảo quy định, NLĐ làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:

    • Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%.
    • Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%.
    • Vào ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300%.

    Việc trả lương lũy tiến làm thêm giờ với mức lương cao hơn quy định ở khoản này thì do hai bên thỏa thuận để thực hiện.

    NLĐ làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày. NLĐ làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc được trả theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, NLĐ còn được trả thêm ít nhất bằng 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày. Về nguyên tắc, NSDLĐ trả lương trực tiếp cho NLĐ. Trường hợp bất khả kháng mà không thể thực hiện trả lương trực tiếp, Dự thảo quy định NSDLĐ có thể trả lương cho người được NLĐ ủy quyền hợp pháp.

    (Nguồn. Người lao động)

  • Suy giảm 20% sức lao động được hưởng chế độ gì?

    Suy giảm 20% sức lao động được hưởng chế độ gì?

    Lê Đình Quốc An (huyện Bình Chánh, TP HCM) hỏi: “Vừa qua, tôi bị tai nạn lao động (TNLĐ) và được cơ quan giám định kết luận suy giảm 20% sức lao động. Tôi đã nộp hồ sơ cho công ty để làm thủ tục hưởng chế độ trợ cấp TNLĐ nhưng chưa được giải quyết. Xin hỏi thời gian giải quyết hồ sơ hưởng trợ cấp TNLĐ là bao lâu và tôi sẽ được hưởng những chế độ gì?”.

    Quyền lợi khi bị giảm khả năng lao động

    BHXH TP HCM trả lời:

    Điều 46 Luật BHXH quy định người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được quy định như sau: Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 5 lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở.

    Ngoài ra, người lao động còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH. Cụ thể, từ 1 năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3 tháng tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

    Theo quy định tại điều 106 của luật này, thời hạn giải quyết hưởng chế độ TNLĐ là 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Trường hợp không giải quyết thì cơ quan BHXH phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

    (Nguồn. Người lao động)

  • Doanh nghiệp sẽ tự xây dựng thang lương, bảng lương

    Doanh nghiệp sẽ tự xây dựng thang lương, bảng lương

    Người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến tổ chức của người lao động tại cơ sở khi xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động và công bố công khai tại nơi làm việc.

    Theo đề xuất tại Dự thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi), người sử dụng lao động (NSDLĐ) xây dựng thang, bảng lương và định mức lao động làm cơ sở để tuyển dụng, sử dụng lao động, thỏa thuận mức lương ghi trong hợp đồng lao động và trả lương cho người lao động (NLĐ).

    Trong đó,mức lao độngphải là mức trung bình tiên tiến, bảo đảm số đông NLĐ thực hiện được mà không phải kéo dài thời giờ làm việc bình thường và phải được áp dụng thử trước khi ban hành chính thức.

    Như vậy, với đề xuất này, NSDLĐ sẽ chủ động trong việc xây dựng thang, bảng lương và định mức lao động.

    Đồng thời, NSDLĐ phải tham khảo ý kiếntổ chức củaNLĐ tại cơ sở khi xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động và công bố công khai tại nơi làm việc.

    Xây dựng thang lương, bảng lương mới

    Bên cạnh đó, Dự thảo còn đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về trả lương như sau:

    – NSDLĐ trả lương cho NLĐ căn cứ vào tiền lương đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, năng suất và chất lượng thực hiện công việc mà người lao động đã hoàn thành.

    – Lương được thỏa thuận và trả bằng tiền Đồng Việt Nam, trừ trường hợp trả cho người không cư trú, người cư trú là người nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại hối.

    – Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ấn định vào một thời điểm cố định.

    (Nguồn. Người lao động)

  • Từ 1-7, lương công chức loại A1 tăng ít nhất 234.000 đồng/tháng

    Từ 1-7, lương công chức loại A1 tăng ít nhất 234.000 đồng/tháng

    (NLĐO) – Bộ Nội vụ đang xây dựng Dự thảo Nghị định quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang áp dụng từ ngày 1-7-2019.

    Theo Dự thảo, từ ngày 1-7-2019, mức lương cơ sở tăng thêm 100.000 đồng, từ 1.390.000 đồng/tháng hiện nay lên 1.490.000 đồng/tháng.

    Mức lương cơ sở được dùng làm căn cứ để:

    – Tính lương trong các bảng lương, mức phụ cấp và thực hiện các chế độ khác theo quy định của pháp luật đối với các đối tượng quy định tại Điều 2 Dự thảo Nghị định;

    – Tính mức hoạt động phí, sinh hoạt phí theo quy định của pháp luật;

    – Tính các khoản trích và các chế độ được hưởng theo mức lương cơ sở.

    Mặt khác, theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP, công chức loại A1 có hệ số lương bậc 1 là 2,34. Mức lương công chức loại A1 bậc 1 sẽ được tính như sau:

    Mức lương thực hiện từ 01/7/2019=1.490.000x2,34=3.486.600 (đồng).

    Như vậy, từ ngày 1-7-2019, lương công chức loại A1 bậc 1 là 3.486.600 đồng/tháng,tăng234.000 đồngso với mức lương hiện hành (3.252.600 đồng/tháng).

    (Nguồn. Người lao động)

  • Nhận 20 triệu ‘lương gross’ hay 18 triệu ‘lương net’ thì có lợi hơn?

    Nhận 20 triệu ‘lương gross’ hay 18 triệu ‘lương net’ thì có lợi hơn?

    Một điều người đi làm luôn trông đợi chính là tiền lương vào cuối tháng. Thậm chí, trong nhiều cuộc đàm phán tuyển dụng, đây đôi khi là yếu tố cuối cùng, sẽ quyết định xem người lao động và công ty có thể đến hay không. Nếu bạn đang chuẩn bị ký hợp đồng lao động với một công ty, chắc chắn bạn sẽ phải phân vân giữa 2 lựa chọn mà công ty đề xuất: nhận ‘lương gross’ hay nhận ‘lương net’ ? Nghe có vẻ không quen thuộc nhưng thực ra, đây là 2 khái niệm quan trọng trong thành phần lương của bạn.

    Kể cả khi đã đang làm việc ở một công ty nào đó rồi, nếu chưa biết thì bạn cũng nên hỏi rõ xem công ty đang trả lương gross hay lương net cho mình. Một sự không hiểu rõ thôi cũng có thể khiến bạn mất rất nhiều quyền lợi mà một người lao động đáng ra được hưởng, nhưng rút cục bạn lại không có chỉ vì những ‘chiêu trò’ mà công ty bày ra.

    Vậy ‘lương gross’, ‘lương net’ thực sự là gì?

    Về mặt định nghĩa chuẩn xác, ‘lương gross’ là phần lương tương xứng với công sức mà bạn làm, với giá trị mà bạn đã cống hiến cho công ty trong tháng đó. Tuy nhiên, bạn sẽ không được hưởng trọn vẹn ‘lương gross’ này mà sẽ phải mất một phần tiền cho các loại bảo hiểm cũng như thuế thu nhập cá nhân.

    Ví dụ, trong tháng, những công sức của bạn đóng góp cho công ty sẽ được công ty trả ‘lương gross’ là 20 triệu đồng.

    Theo Quyết định số 595/QĐ-BHXH có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2017 thì tổng số tiền trong lương của một người lao động đóng góp cho 3 quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm thất nghiệp sẽ chiếm tổng cộng 32,5%.

    Trong số này, doanh nghiệp sẽ góp 22% từ quỹ công ty, người lao động sẽ chỉ góp 10,5%. Vậy số lương người lao động sẽ mất cho các quỹ này là 20 x 10,5% = 2,1 triệu đồng và số tiền còn lại sau khi đóng là 20 triệu – 2,1 triệu =17,9 triệu đồng.

    Phần tiền 17,9 triệu này sẽ được mang đi để tính thuế thu nhập cá nhân. Phần thu nhập dùng để tính thuế bằng số 17,9 triệu trừ đi 9 triệu giảm trừ gia cảnh bản thân (luật quy định áp dụng với mọi người lao động) và sẽ là 8,9 triệu đồng.

    Tinh Luong Gross

    Cách tính lương gross và lương net của bạn

    8,9 triệu đồng theo khung tính thuế sẽ thuộc vào khoảng 5 triệu – 10 triệu và sẽ chịu mức thuế suất là 10%. Vậy, số thuế thu nhập cá nhân mà người lao động phải chịu là 8,9 triệu x 10% = 0,89 triệu đồng.

    Lấy thu nhập sau trừ các quỹ trừ đi thuế thu nhập cá nhân, bạn sẽ tính được số tiền bạn mang được về nhà là 17,9 triệu – 0,89 triệu = 17,01 triệu đồng.

    Thu nhập 17,01 triệu đồng này chính là ‘lương net’ của bạn. Dù bạn làm ra được 20 triệu đồng nhưng cũng sẽ chỉ mang về nhà được 17,01 triệu đồng.

    Nhận ‘lương gross’ sẽ chủ động nhất, nhận ‘lương net’ hãy cẩn thận công ty ‘chiêu trò’!

    Vậy, bạn nên gật đầu với nhận ‘lương gross’ hay nhận ‘lương net’?

    Đối chiếu ví dụ trên, điều đó nghĩa là họ sẽ trả cho bạn một khoảng 20 triệu đồng, bạn tự đi đóng các khoản bảo hiểm, thuế (bạn sẽ phải đóng vì nếu không đóng bảo hiểm thì thiệt cho bạn, nếu không đóng thuế thì cơ quan thuế sẽ ‘sờ gáy’); hoặc trả 17,01 triệu đồng, bạn được cầm về nhà nguyên vẹn 17,01 triệu đồng vì các khoản trên công ty đã trích lập hộ rồi.

    Tuy nhiên, câu chuyện không đơn giản như vậy. Lời khuyên là nếu bạn đi làm, hãy xin nhận ‘lương gross’, dù bạn sẽ phải cất công đi đóng các chi phí khác.

    Còn nếu nhận ‘lương net’, hãy hỏi rõ xem các khoản bảo hiểm hay thuế mà công ty đóng hộ mình là bao nhiêu. Phải làm điều này bởi lẽ trong số các công ty trả ‘lương net’, sẽ có 2 trường hợp:

    Trường hợp 1: Công ty tự tính ngược lại ra ‘lương gross’ để tính ra các khoản phải đóng cho người lao động mình.

    Ví dụ trường hợp trên, nếu chuyển vào tài khoản của bạn 17,01 triệu đồng vào cuối tháng, công ty sẽ tính ngược ra lương gross của bạn là 20 triệu đồng và đóng cho các Quỹ bảo hiểm theo mức này. Ở trường hợp này, bạn sẽ không có gì phải phàn nàn.

    Trường hợp 2: Công ty không đàng hoàng, không tính ngược lại ra ‘lương gross’ mà đóng các chi phí khác chỉ theo ‘lương net’ đã trả cho người lao động.

    Ví dụ trường hợp trên, nếu đã trả cho bạn ‘lương net’ 17,01 triệu đồng thì khi đối phó với cơ quan bảo hiểm, thuế, công ty sẽ coi số này là ‘lương gross’ luôn. Các chi phí khác mà bạn được đóng sẽ tính theo số 17,01 triệu đồng này.

    Nhìn từ con mắt công ty, điều này hoàn toàn dể hiểu vì nó giúp giảm bớt chi phí mà doanh nghiệp phải mất. Phần 10,5% tiền bảo hiểm trích lập hộ cũng như thuế thu nhập cá nhân, dù là tính vào lương người lao động nhưng bản chất cũng là tiền của công ty. Trong tình huống công ty đang cần tiền mặt khẩn cấp thì đúng là ‘chiêu trò’ này sẽ phát huy hiệu quả rất nhiều.

    Tinh Luong NET

    Nếu công ty dùng ‘chiêu trò’, số tiền bảo hiểm bạn đóng sẽ giảm đáng kể

    Ngược lại đối với bạn, điều này sẽ làm bạn tổn hại vì trên lý thuyết thì vẫn là lương của bạn góp vào các Quỹ Bảo hiểm trên. Nếu bạn góp ít thì đến khi thai sản, có tai nạn lao động xảy ra, hưởng an sinh xã hội…những quyền lợi mà một người lao động đáng được có sẽ không đến với bạn.

    Như vậy, tốt hơn hết thì cứ nhận ‘lương gross’ để được sự chủ động. Bạn cũng nên lưu ý rằng các công ty trả ‘lương gross’ cho nhân viên mình nhiều nhất vẫn thuộc về nhóm các công ty nước ngoài.

    Thậm chí, trong trường hợp trả ‘lương net’, các công ty nước ngoài này cũng sẽ cho bạn xem một bản kê khai đã đóng các khoản bảo hiểm và thuế cho bạn trong tháng này là bao nhiêu. Điều này đảm bảo việc không có ‘chiêu trò’ nào xảy ra.

    Ngược lại, với các công ty Việt Nam, ‘lương net’ đặc biệt được ưu chuộng.

    Sự thực là hỏi những người lao động ở nhiều công ty Việt Nam xem họ có biết hàng tháng công ty đóng cho mình bao nhiêu tiền bảo hiểm thì hẩu như họ đều không biết, bởi vì vì công ty không công khai điều này!

    Theo Trí Thức Trẻ