Thẻ: luật lao động

  • Phạt đến 100 triệu đồng nếu chậm trả lương cho người lao động

    Phạt đến 100 triệu đồng nếu chậm trả lương cho người lao động

    Đây là nội dung được quy định tại Nghị định số 28/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, BHXH, đưa người lao động (NLĐ) Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

    Cụ thể, phạt tiền đối với người sử dụng lao động (NSDLĐ) có một trong các hành vi: Trả lương không đúng hạn; không trả hoặc trả không đủ tiền lương cho NLĐ theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động; không trả hoặc trả không đủ tiền lương cho NLĐ làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, công việc đòi hỏi đã qua đào tạo, học nghề theo quy định của pháp luật; trả lương thấp hơn mức quy định tại thang lương, bảng lương đã gửi cho cơ quan nhà nước về lao động cấp huyện; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc ban đêm, tiền lương ngừng việc cho NLĐ theo quy định của pháp luật; khấu trừ tiền lương của NLĐ không đúng quy định của pháp luật…

    Chậm trả lương cho người lao động, doanh nghiệp bị phạt đến 100 triệu đồng

    Mức phạt tương ứng như sau: Từ 5-10 triệu đồng đối với vi phạm từ 1 đến 10 NLĐ; từ 10-20 triệu đồng đối với vi phạm từ 11 đến 50 NLĐ; từ 20-30 triệu đồng đối với vi phạm từ 51 đến 100 NLĐ; từ 30-40 triệu đồng đối với vi phạm từ 101 đến 200 NLĐ; từ 40-50 triệu đồng đối với vi phạm từ 301 NLĐ trở lên. Đồng thời, NSDLĐ buộc trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả, trả thiếu cho NLĐ tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt. Mức phạt này áp dụng đối với NSDLĐ là cá nhân. Đối với NSDLĐ là tổ chức, mức phạt được nhân đôi. Như vậy, NSDLĐ là tổ chức sẽ bị phạt tối đa 100 triệu đồng nếu chậm trả lương cho NLĐ.

    Tin-ảnh: N.Tú NLDO

  • 17 điểm mới trong Bộ Luật Lao động (sửa đổi) người lao động cần biết

    17 điểm mới trong Bộ Luật Lao động (sửa đổi) người lao động cần biết

    (NLĐO) – Bên cạnh việc tăng tuổi nghỉ hưu, đáng chú ý, Điều 112 Bộ luật Lao động sửa đổi còn bổ sung thêm 1 ngày nghỉ trong năm vào ngày liền kề với ngày Quốc khánh, có thể là 1/9 hoặc 3/9 Dương lịch tùy theo từng năm và theo đề xuất của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

    Bộ luật Lao động sửa đổi (BLLĐ) vừa được Quốc hội Khóa XIV thông qua ngày 20-11-2019 với 17 chương, 220 điều, đã có nhiều sửa đổi, bổ sung lớn, quan trọng, có hiệu lực từ ngày 1-1-2021. So với BLLĐ hiện hành, BLLĐ sửa đổi có 17 điểm mới người lao động (NLĐ) cần biết:

    1. Mở rộng phạm vi và đối tượng điều chỉnh:

    Nếu như BLLĐ 2012 quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của NLĐ, người sử dụng lao động… trong quan hệ lao động và các quan hệ khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động thì BLLĐ 2019 mở rộng thêm đối tượng là người làm việc không có quan hệ lao động cùng một số tiêu chuẩn riêng.

    Cụ thể: Điều chỉnh tất cả NLĐ có quan hệ lao động (khoảng gần 20 triệu người).

    – Mở rộng áp dụng một số quy định của Bộ luật đối với cả NLĐ không có quan hệ lao động, một số nội dung được áp dụng cho toàn bộ lực lượng lao động xã hội khoảng 55 triệu người.

    Bộ luật cũng có quy định để mở rộng diện bao phủ và nâng cao khả năng nhận diện NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động, dựa trên các dấu hiệu bản chất của quan hệ lao động cá nhân.

    2. Tăng tuổi nghỉ hưu lên 62 tuổi với nam, 60 tuổi với nữ:

    Điều 169 BLLĐ mới nêu rõ: Tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.

    Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với nam; đủ 55 tuổi 4 tháng đối với nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng với lao động nam; 4 tháng với lao động nữ.

    Riêng người bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hay làm việc ở nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì có thể nghỉ hưu trước không quá 5 tuổi.

    So với hiện nay theo BLLĐ 2012, tuổi nghỉ hưu của NLĐ đã tăng lên đáng kể; đồng thời, với những công việc đặc thù thì việc nghỉ hưu trước tuổi cũng được quy định ràng hơn.

    3. Quốc khánh được nghỉ 2 ngày:

    Bên cạnh việc tăng tuổi nghỉ hưu, đáng chú ý, Điều 112 BLLĐ sửa đổi còn bổ sung thêm 1 ngày nghỉ trong năm vào ngày liền kề với ngày Quốc khánh, có thể là 1/9 hoặc 3/9 Dương lịch tùy theo từng năm và theo đề xuất của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

    Và như vậy, tổng số ngày nghỉ lễ, tết hàng năm sẽ nâng lên 11 ngày, trong đó: Tết Dương lịch: 1 ngày; Tết Âm lịch: 5 ngày; Ngày Chiến thắng (30/4 Dương lịch): 1 ngày; Ngày Quốc tế lao động (1/5 Dương lịch): 1 ngày; Ngày Quốc khánh: 2 ngày; Ngày Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 Âm lịch): 1 ngày.

    Trong những ngày này, người lao động được nghỉ làm việc và hưởng nguyên lương.

    4. Không còn hợp đồng lao động theo mùa vụ:

    Điều 20 Bộ luật Lao động sửa đổi đã bỏ nội dung về hợp đồng mùa vụ hoặc theo một công việc có thời hạn dưới 12 tháng, thay vào đó chỉ còn 2 loại hợp đồng là: hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn.

    Quy định này được đánh giá là tiến bộ lớn của pháp luật lao động nhằm bảo vệ NLĐ, hạn chế tình trạng người sử dụng lao động “lách luật”, không đóng bảo hiểm xã hội cho NLĐ bằng cách ký các loại hợp đồng mùa vụ, dịch vụ…

    5. Ghi nhận hình thức hợp đồng lao động điện tử:

    Xuất phát từ thực tiễn, với sự phát triển của khoa học công nghệ thì việc giao kết hợp đồng lao động không đơn thuần chỉ bằng văn bản, lời nói hay hành vi. Chính vì vậy, Điều 14 BLLĐmới đã ghi nhận thêm hình thức giao kết hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản.

    Ngoài ra, với những trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì vẫn được coi là hợp đồng lao động.

    6. Được ký hợp đồng xác định thời hạn nhiều lần với người cao tuổi:

    Thông thường, người cao tuổi thường là những người có nhiều năm làm việc với nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là những công việc yêu cầu trình độ cao. Do đó, để phát huy giá trị của người cao tuổi, Điều 149 Bộ luật Lao động cho phép người sử dụng lao động thỏa thuận giao kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định thời hạn với người cao tuổi thay vì kéo dài thời hạn hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới như trước đây.

    7. Tăng thời giờ làm thêm theo tháng lên 40 giờ:

    Về thời giờ làm việc, trước mắt giữ nguyên thời giờ làm việc bình thường như quy định của Bộ luật hiện hành và có lộ trình điều chỉnh giảm giờ làm việc bình thường vào thời điểm thích hợp.

    Về thời giờ làm thêm, mặc dù trước đó rất nhiều phương án được đưa ra, tuy nhiên, tại Điều 107 Bộ luật Lao động 2019, Quốc hội đã quyết định không tăng thời giờ làm thêm giờ trong năm.

    Bảo đảm số giờ làm thêm của NLĐ không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày; nếu áp dụng thời giờ làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ/ngày; không quá 40 giờ/tháng; không quá 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ/năm.

    Điều khác biệt duy nhất về thời gian làm thêm giờ quy định tại BLLĐ 2019 với BLLĐ 2012 ở điểm: Số giờ làm thêm trong tháng tăng lên 40 giờ thay vì 30 giờ và cụ thể hơn các trường hợp được làm thêm tới 300 giờ/năm như sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm là hàng dệt, may, da, giày, linh kiện điện, điện tử, chế biến nông, lâm, thủy sản; cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước…

    8. Thêm trường hợp nghỉ việc riêng hưởng nguyên lương:

    Theo BLLĐ 2019, NLĐ được nghỉ việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương và phải thông báo với người sử dụng lao động trong những trường hợp sau đây:

    – Kết hôn: nghỉ 3 ngày;

    – Con đẻ, con nuôi kết hôn: nghỉ 1 ngày;

    – Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi chết: nghỉ 3 ngày.

    Trường hợp NLĐ không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp

    Như vậy, có thể thấy BLLĐ 2019 đã bổ sug thêm 2 trường hợp NLĐ được nghỉ việc riêng và hưởng nguyên lương, cụ thể là trường hợp bố nuôi chết và mẹ nuôi chết, đồng thời BLLĐ 2019 cũng quy định rõ hơn các trường hợp NLĐ được nghỉ việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương đã được quy định trước đó tại Bộ luật Lao động 2012 như: Con kết hôn sẽ gồm con đẻ và con nuôi kết hôn; bố vợ, mẹ vợ hoặc bố chồng, mẹ chồng chết sẽ bao gồm cả bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con chết cũng sẽ bao gồm cả con đẻ hoặc con nuôi chết.

    9. Người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do:

    Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập từ việc áp dụng các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động, Điều 35 Bộ luật Lao động 2019 cho phép NLĐ được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do mà chỉ cần báo trước 30 ngày với hợp đồng xác định thời hạn và 45 ngày với hợp đồng không xác định thời hạn.

    Thậm chí, trong một số trường hợp, NLĐ còn được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước, như:

    – Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận;

    – Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn;

    – Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;

    – Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;

    – Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc;

    – Đủ tuổi nghỉ hưu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;

    – Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.

    Đồng thời, NLĐ cũng được quyền yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của mình khi chấm dứt hợp đồng lao động; các chi phí của việc cung cấp do người sử dụng lao động chi trả…

    10. Có thể ủy quyền cho người khác nhận lương:

    Bộ luật mới quy định: Trường hợp NLĐ không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.

    Trước đó nội dung này không được quy định tại BLLĐ 2012. Việc cho phép NLĐ ủy quyền cho người khác nhận lương được cho là hợp lý, nhất là trong trường hợp NLĐ bị ốm đau, tai nạn không thể trực tiếp nhận lương…

    Người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của NLĐ

    11. Khi trả lương qua ngân hàng, người sử dụng lao động phải trả phí mở tài khoản:

    Nếu như trước đây, BLLĐ 2012 quy định khi trả lương qua tài khoản ngân hàng, người sử dụng lao động và NLĐ thỏa thuận về các loại phí liên quan đến việc mở và duy trì tài khoản (khoản 2 Điều 94); thì nay BLLĐ mới quy định việc trả các loại phí liên quan đến mở tài khoản và phí chuyển tiền là trách nhiệm bắt buộc của người sử dụng lao động.

    12. Cấm ép người lao động dùng lương để mua hàng hóa, dịch vụ của công ty:

    Bộ luật mới quy định người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của NLĐ. Đặc biệt, không được ép buộc NLĐ chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.

    13. Người lao động có thể được “thưởng” không chỉ bằng tiền:

    BLLĐ 2019 quy định về “Thưởng” thay vì “Tiền thưởng” như Bộ luật cũ. Theo đó khái niệm thưởng cho NLĐ cũng được mở rộng ra, có thể là tiền hoặc tài sản hoặc bằng các hình thức khác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của NLĐ.

    14. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào tiền lương của doanh nghiệp:

    Điều 93 BLLĐ 2019 quy định, doanh nghiệp được chủ động trong việc xây dựng thang lương, bảng lương và định mức lao động trên cơ sở thương lượng, thoả thuận với người lao động.

    Tiền lương trả cho NLĐ là số tiền để thực hiện công việc, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Mức lương theo công việc hoặc chức danh không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.

    15. Khi trả lương, doanh nghiệp phải gửi bảng kê chi tiết cho người lao động:

    Nhằm minh bạch tiền lương của NLĐ, Bộ luật này yêu cầu mỗi lần trả lương, người sử dụng lao động phải thông báo bảng kê trả lương NLĐ, trong đó ghi rõ: Tiền lương; Tiền lương làm thêm giờ; Tiền lương làm việc vào ban đêm; Nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có)…

    16. Đối thoại định kỳ tại nơi làm việc 1 năm/lần:

    Thay vì tổ chức định kỳ 3 tháng/lần như hiện nay thì khoản 1 Điều 63 BLLĐ sửa đổi đã nâng thời gian tổ chức đối thoại định kỳ tại nơi làm việc lên 1 năm/lần; đồng thời, bổ sung thêm một số trường hợp người sử dụng lao động phải tổ chức đối thoại như vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc; khi xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động…

    17. Giới hạn thời gian học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động:

    Cụ thể, theo nội dung tại BLLĐ sửa đổi, học nghề để làm việc cho người sử dụng lao động là việc người sử dụng lao động tuyển người vào để đào tạo nghề nghiệp tại nơi làm việc; thời gian học nghề theo chương trình đào tạo của từng trình độ theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp. Tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động là việc người sử dụng lao động tuyển người vào để hướng dẫn thực hành công việc, tập làm nghề theo vị trí việc làm tại nơi làm việc; thời hạn tập nghề không quá 3 tháng.

    Trường hợp NLĐ không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp

    Trường hợp NLĐ không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp

    So với quy định hiện nay tại BLLĐ 2012, BLLĐ sửa đổi đã bổ sung quy định về thời hạn học nghề, tập nghề của NLĐ, theo đó, từ ngày 1-1-2021, thời gian tập nghề của NLĐ không quá 3 tháng còn thời gian học nghề theo chương trình đào tạo của từng trình độ theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.

    Theo NLDO

  • Năm 2021, nhiều doanh nghiệp phải sửa nội quy lao động

    Năm 2021, nhiều doanh nghiệp phải sửa nội quy lao động

    Một trong những quy định mới của Bộ luật Lao động 2019 ảnh hưởng tới hầu hết các doanh nghiệp hiện nay là bổ sung một số nội dung cho nội quy lao động.

    Năm 2021, nhiều doanh nghiệp phải sửa nội quy lao động

    Khoản 2 Điều 118 Bộ luật này quy định nội quy lao động phải bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

    – Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

    – Trật tự tại nơi làm việc;

    – An toàn, vệ sinh lao động;

    – Phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; trình tự, thủ tục xử lý hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc (nội dung mới);

    – Việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động;

    – Trường hợp được tạm thời chuyển người lao động làm việc khác so với hợp đồng lao động (nội dung mới);

    – Các hành vi vi phạm kỷ luật lao động của người lao động và các hình thức xử lý kỷ luật lao động;

    – Trách nhiệm vật chất (nội dung mới);

    – Người có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động (nội dung mới).

    So với hiện nay, nội quy lao động theo Bộ luật mới đã thêm 04 nội dung được đánh giá là thiết thực nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động cũng như đảm bảo sự khách quan, công bằng cho các bên trong quan hệ lao động.

    Do đó, nếu nội quy lao động hiện nay chưa có những nội dung nêu trên thì khi Bộ luật Lao động 2019 chính thức áp dụng, doanh nghiệp phải tiến hành sửa đổi, bổ sung theo đúng quy định.

    Bộ luật Lao động 2019 được thông qua ngày 20/11/2019 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021.

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Luật Lao động sửa đổi: 5 điểm mới có lợi cho người sử dụng lao động

    Luật Lao động sửa đổi: 5 điểm mới có lợi cho người sử dụng lao động

    Luật Lao động sửa đổi được Quốc hội bỏ phiếu thông qua hôm 20/11/2019 với nhiều nội dung hấp dẫn, trong đó có 5 điểm mới có lợi cho người sử dụng lao động.

    (Nguồn. Báo dân trí)

  • Công ty có được thay đổi địa điểm làm việc của người lao động?

    Công ty có được thay đổi địa điểm làm việc của người lao động?

    Đã có không ít mâu thuẫn liên quan đến địa điểm làm việc, thậm chí, có những lao động đã phải nghỉ việc vì doanh nghiệp thay đổi địa điểm làm việc của mình. Pháp luật có cho phép doanh nghiệp làm việc này?

    Người lao động được làm việc theo hợp đồng lao động

    Theo Điều 23 Bộ luật Lao động 2012, một trong những nội dung bắt buộc phải có của hợp đồng lao động là địa điểm làm việc.

    Cụ thể hơn, theo khoản 3 Điều 4 Nghị định 05 năm 2015, hợp đồng lao động sẽ có nội dung về phạm vi, địa điểm người lao động làm công việc đã thỏa thuận; trường hợp làm việc ở nhiều địa điểm khác nhau thì ghi các địa điểm chính.

    Tuy nhiên, trong suốt quá trình làm việc, không phải bất cứ công việc nào người lao động cũng chỉ làm việc ở duy nhất một nơi theo hợp đồng lao động hoặc theo thỏa thuận khác ban đầu mà có thể điều động, luân chuyển đi nơi khác.

    Trong trường hợp này, doanh nghiệp phải báo cho người lao động biết trước ít nhất 03 ngày làm việc về việc thay đổi địa điểm làm việc.

    Nếu được người lao động đồng ý thì hai bên tiến hành sửa đổi, bổ sung hợp đồng bằng việc ký phụ lục hợp đồng hoặc giao kết hợp đồng lao động mới.

    Trường hợp không được người lao động đồng ý, không thỏa thuận được việc sửa đổi, bổ sung nội dung hợp đồng thì doanh nghiệp buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng đã giao kết.

    Và như vậy, chỉ khi có sự đồng ý của người lao động thì doanh nghiệp mới được thay đổi địa điểm làm việc đã thỏa thuận ban đầu.

    Ép người lao động làm việc ở nơi khác, doanh nghiệp bị phạt

    Pháp luật chỉ cho phép doanh nghiệp tạm thời chuyển người lao động sang làm công việc khác so với hợp đồng lao động. Do đó, nếu doanh nghiệp vẫn ép người lao động làm việc ở một địa điểm khác so với hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận ban đầu thì doanh nghiệp sẽ bị phạt.

    Cụ thể trong trường hợp này, theo khoản 2 Điều 7 Nghị định 95 năm 2013 của Chính phủ, người sử dụng lao động bị phạt tiền từ 03 – 07 triệu đồng.

    Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi cho mình, người lao động có thể khiếu nại quyết định điều chuyển, thay đổi địa điểm làm việc của mình tới người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc làm đơn khiếu nại gửi tới Chánh Thanh tra Sở Lao động Thương binh và Xã hội nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

    Trường hợp doanh nghiệp vẫn không thay đổi quyết định thì người lao động có thể khởi kiện ra Tòa án để được giải quyết.

    Bên cạnh đó, vẫn còn lựa chọn khác cho người lao động, đó là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo Điều 37 Bộ luật Lao động 2012 với điều kiện phải báo trước ít nhất 03 ngày làm việc.

    Lúc này, người lao động vẫn được đảm bảo các chế độ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng như nhận lại sổ bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp nếu đáp ứng đủ điều kiện theo quy định…

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Tiền lương luỹ tiến làm thêm giờ – doanh nghiệp hay người lao động có lợi?

    Tiền lương luỹ tiến làm thêm giờ – doanh nghiệp hay người lao động có lợi?

    Quy định tính tiền lương luỹ tiến làm thêm giờ khiến người lao động muốn làm thêm để có nhiều thu nhập, dù bị ảnh hưởng tới sức khỏe. Ngược lại, doanh nghiệp phải tăng chi phí khi tổ chức làm thêm giờ. Vậy, xử lý bài toán này ra sao trong dự thảo sửa đổi Luật Lao động?

    Sau 3 lần tiếp thu và chỉnh lý, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung – Trưởng Ban soạn thảo dự án sửa đổi Luật Lao động 2012, đã có báo cáo gửi Uỷ Ban thường vụ Quốc hội trong việc tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội và ý kiến thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề xã hội.

    Tăng thu nhập – giảm sức khoẻ

    Liên quan tới vấn đề tiền lương, một số đại biểu quốc hội đã đề nghị quy định cụ thể mức lương lũy tiến làm thêm giờ trong dự thảo Bộ luật.

    Đánh giá về đề xuất trên, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng đây là một vấn đề mới và cần xem xét nhiều chiều.

    Phân tích của Ban soạn thảo cũng cho thấy, sự xuất hiện của cả tỉ lệ nghịch và thuận về lợi ích của các bên khi áp dụng quy định trên.

    Với quy định mức lương làm thêm giờ cao như hiện nay và nếu áp dụng thêm cách tính lũy tiến sẽ đồng nghĩa với việc kích thích người lao động mong muốn làm thêm nhiều giờ để có nhiều thu nhập.

    Tuy nhiên điều này lại không đạt được mục tiêu bảo vệ được sức khỏe cho người lao động. Về lâu dài, việc lạm dụng sẽ ảnh hưởng tới chất lượng làm việc và người lao động.

    Về góc độ doanh nghiệp, quy định mức lương làm thêm giờ lũy tiến gây khó cho doanh nghiệp bởi phải cân nhắc chi phí tổ chức làm thêm giờ trong bối cảnh tỷ lệ lao động chuyển việc cao.

    Đơn cử như đánh giá của các doanh nghiệp Nhật Bản, tỷ lệ nhảy việc của lao động Việt Nam mỗi năm vào khoảng 30%. Điều này cũng đồng nghĩa với tình trạng doanh nghiệp phải tuyển mới thay thế khoảng 30% trong năm.

    Việc này dẫn đến các doanh nghiệp phải tăng chi phí tuyển dụng, tăng chi phí đào tạo cho lao động mới tuyển. Nếu tiếp tục tăng chi phí làm thêm giờ sẽ tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp, làm tăng chi phí lao động và giảm tính cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam.

    Trong khi đó, Ban soạn thảo cho rằng quy định tổ chức làm thêm giờ nhiều khi không phải là điều mong muốn mà buộc phải làm, vì thiếu lao động để đáp ứng thời hạn hợp đồng.

    Áp dụng “cứng”: Nên hay không?

    Nhận định của Ban soạn thảo, ngoại trừ nhóm các doanh nghiệp FDI khắc phục được vì năng lực tổ chức và tiềm lực tài chính, công nghệ mạnh, quy định mức lương làm thêm giờ lũy tiến sẽ gây khó trong ngắn hạn.

    Với các doanh nghiệp trong nước, điều này càng không đơn giản.

    Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết: “Trường hợp áp dụng cách tính luỹ tiến sẽ gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp nội khi trình độ công nghệ không cao và năng lực tài chính, tổ chức hạn chế. Trong khi đó, cả nước có tới 98% doanh nghiệp với mô hình vừa, nhỏ và siêu nhỏ”.

    Đặc biệt, lĩnh vực dệt may và thủy sản được coi là hưởng lợi từ các Hiệp định thương mại thế hế hệ mới như CPTPP và EVFTA sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên.

    Nguy cơ các doanh nghiệp nội sẽ phải thu hẹp sản xuất, rút khỏi thị trường và thay vào đó là các doanh nghiệp ngoại. Quy định cao hơn nữa sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh về chi phí lao động của Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực, gây bất lợi cho doanh nghiệp nội.

    Trước việc phân tích như trên, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết: “Ban soạn thảo đề nghị giữ nguyên mức tiền lương làm thêm giờ như hiện nay và việc trả lương lũy tiến làm thêm giờ với mức lương cao hơn mức trên sẽ do hai bên thỏa thuận”.

    (Nguồn. Dantri)

  • Lao động xuất khẩu nên làm gì khi bị nợ lương, ngược đãi?

    Lao động xuất khẩu nên làm gì khi bị nợ lương, ngược đãi?

    Tiếp nối chủ đề về xuất khẩu lao động, bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn người lao động đi làm việc ở nước ngoài cách để bảo vệ mình phòng khi bị nợ lương, ngược đãi… ở nơi đất khách quê người.

    Trách nhiệm của doanh nghiệp khi người lao động ở nước ngoài

    Ngoài các nghĩa vụ đối với cơ quan Nhà nước, người lao động trước khi đi xuất khẩu, các doanh nghiệp dịch vụ còn có trách nhiệm với người lao động trong suốt quá trình làm việc và cho tới khi về nước. Cụ thể theo khoản 2 Điều 27 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng:

    – Quản lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động;

    – Phối hợp với bên nước ngoài giải quyết các vấn đề phát sinh khi người lao động chết, bị tai nạn lao động, tai nạn rủi ro, bệnh nghề nghiệp, bị xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các tranh chấp liên quan đến người lao động;

    – Báo cáo và phối hợp với cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài quản lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài.

    Chính vì vậy, khi có bất cứ chuyện gì xảy ra liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình thì việc đầu tiên mà người lao động nên làm là liên hệ với doanh nghiệp dịch vụ đã đưa mình đi làm việc ở nước ngoài.

    Doanh nghiệp chối bỏ trách nhiệm, người lao động nên làm gì?

    Nếu doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chối bỏ trách nhiệm, không hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi cho người lao động thì người lao động có thể khiếu nại hoặc khởi kiện tại Tòa án để đòi lại công bằng cho mình.

    Theo Điều 7 Nghị định 24/2018/NĐ-CP, trong vòng 180 ngày kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp dịch vụ không bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho mình, người lao động thực hiện khiếu nại lần đầu tới người đứng đầu doanh nghiệp dịch vụ này.

    Trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch họa… hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian trở ngại đó không tính vào thời gian khiếu nại.

    Nếu quá 30 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại (với vụ việc phức tạp thì quá 45 ngày) mà doanh nghiệp dịch vụ không giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng thì người lao động khiếu nại lần hai tới Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi doanh nghiệp có trụ sở.

    Nếu vẫn ở nước ngoài và trong trường hợp cấp thiết, có thể nguy hiểm tới tính mạng, sức khỏe và tài sản của mình thì hơn hết, người lao động nên liên hệ, báo cáo trực tiếp với đại sứ quán của Việt Nam tại nước sở tại để được bảo vệ một cách tốt nhất.

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Tổng hợp 9 điều doanh nghiệp cần lưu ý khi sử dụng lao động nữ

    Tổng hợp 9 điều doanh nghiệp cần lưu ý khi sử dụng lao động nữ

    Lao động nữ luôn giữ vai trò quan trọng trong thị trường lao động, đặc biệt là các ngành may mặc, da giày. Do đặc thù về sức khỏe và sinh lý nên pháp luật đã dành cho họ những ưu đãi nhất định.

    1. Không phân biệt đối xử giữa lao động nam và lao động nữ

    Theo khoản 1 Điều 5 Nghị định 85/2015/NĐ-CP, doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ.

    Việc này phải thể hiện ngay từ chính sách tuyển dụng ban đầu và duy trì trong suốt quá trình sử dụng về đào tạo, tiền lương, khen thưởng, cơ hội thăng tiến, các chế độ bảo hiểm, điều kiện an toàn, vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và các chế độ phúc lợi khác.

    2. Không sử dụng lao động nữ làm một số việc nhất định

    Đây là những công việc hoặc điều kiện làm việc ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cũng như thiên chức làm mẹ của lao động nữ.

    Cụ thể tại Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH:

    Những công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con: trực tiếp nấu chảy, rót kim loại nóng chảy ở các lò; bảo dưỡng, sửa chữa đường dây điện trong cống ngầm hoặc trên cột ngoài trời, đường dây điện cao thế, lắp dựng cột điện cao thế…

    Những công việc phải thường xuyên ngâm mình dưới nước hay dưới hầm mỏ: đổ bê tông dưới nước; thợ lặn; nạo vét cống ngầm (trừ nạo vét tự động, bằng máy); làm việc dưới nước bẩn hôi thối (từ 04 giờ/ngày trở lên, trên 03 ngày/tuần)…

    Trường hợp vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 10 – 20 triệu đồng (theo khoản 2 Điều 18 Nghị định 95/2013/NĐ-CP).

    3. Phải tham khảo ý kiến khi có quyền lợi liên quan

    Khoản 2 Điều 154 Bộ luật Lao động 2012 nêu rõ, doanh nghiệp có nghĩa vụ tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ.

    Nếu không làm tròn nghĩa vụ này, doanh nghiệp có thể bị phạt từ 500.000 đồng – 01 triệu đồng (theo khoản 1 Điều 18 Nghị định 95/2013/NĐ-CP).

    Đồng thời, phải bảo đảm có đủ buồng tắm, buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc và giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho lao động nữ.

    Thực tế, những doanh nghiệp ở các khu công nghiệp hay doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ thường làm tốt quy định này hơn.

    4. Tổ chức khám chuyên khoa phụ sản 06 tháng/lần

    Bảo đảm sức khỏe cho người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng là việc mà mọi doanh nghiệp đều phải thực hiện. Việc làm này không chỉ duy trì nguồn nhân lực mà còn góp phần nâng cao năng suất, chất lượng công việc.

    Theo đó, bên cạnh việc khám sức khỏe định kỳ thì hàng năm, doanh nghiệp phải tổ chức khám chuyên khoa phụ sản cho lao động nữ ít nhất 06 tháng/lần (theo khoản 2 Điều 152 Bộ luật Lao động 2012).

    5. Phải cho nghỉ 30 phút/ngày trong thời gian hành kinh

    Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 85/2015/NĐ-CP, trong thời gian hành kinh, lao động nữ phải được nghỉ 30 phút/ngày và tối thiểu 03 ngày/tháng mà vẫn được hưởng đủ lương theo hợp đồng lao động.

    Thời gian nghỉ cụ thể căn cứ vào nhu cầu của lao động nữ và sự thỏa thuận với người sử dụng lao động, phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc.

    Tuy nhiên, không ít người lao động coi đây là chuyện tế nhị và thường bỏ qua quyền lợi này, nhưng thực tế vẫn có những cách để người sử dụng lao động và người lao động có thể cảm thông với nhau.

    Trường hợp lao động nữ đã có “lời” mà vẫn không được nghỉ thì doanh nghiệp bị phạt tiền từ 500.000 đồng – 01 triệu đồng (theo khoản 1 Điều 18 Nghị định 95/2013/NĐ-CP).

    6. Đảm bảo việc làm cho lao động nữ khi mang thai

    Làm mẹ là thiên chức cao cả của phụ nữ, chính vì vậy, bảo vệ lao động nữ trong suốt thời gian mang thai cũng là trách nhiệm của doanh nghiệp.

    Theo Điều 32 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, khi mang thai, lao động nữ được nghỉ việc đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hay thai nhi không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai.

    Ngoài ra, Điều 155 Bộ luật Lao động 2012 quy định, không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa khi mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

    Đồng thời, phải chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc giảm bớt 01 giờ làm việc/ngày mà vẫn hưởng đủ lương khi mang thai từ tháng thứ 07 trở đi.

    Đặc biệt, không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong thời gian này, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

    Bên cạnh việc đảm bảo việc làm, trong một số trường hợp, doanh nghiệp còn phải tôn trọng và chấp nhận việc lao động nữ tạm hoãn thực hiện hợp đồng hay đơn phương chấm dứt hợp đồng.

    Đó là khi lao động nữ mang thai nếu tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi theo xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền.

    7. Nghỉ chế độ thai sản ít nhất 4 tháng

    Điều 157 Bộ luật Lao động 2012 quy định, lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh là 06 tháng. Nếu sinh đôi trở lên thì từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.

    Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng trọn chế độ thai sản.

    Và trước khi hết thời gian nghỉ theo tiêu chuẩn, nếu có nhu cầu và có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe, cũng như được sự đồng ý của người sử dụng lao động thì lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất 04 tháng.

    Trong trường hợp này, ngoài tiền lương do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản.

    8. Phải tạo điều kiện khi nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi

    Tương tự như thời gian mang thai, trong thời gian nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, doanh nghiệp không được bố trí lao động nữ làm đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa.

    Đồng thời, cũng không được xử lý kỷ luật hay đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

    Và hơn hết, phải bố trí, sắp xếp, tạo mọi điều kiện để lao động nữ được đi muộn/về sớm 60 phút mỗi ngày mà vẫn hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.

    Trường hợp vi phạm các quy định nêu trên sẽ bị phạt tiền từ 10 – 20 triệu đồng (theo khoản 2 Điều 18 Nghị định 95/2013/NĐ-CP).

    9. Được giảm thuế khi sử dụng nhiều lao động nữ

    Pháp luật luôn khuyến khích các doanh nghiệp tạo điều kiện để lao động nữ được làm việc và phát triển sự nghiệp của mình. Chính vì vậy, giảm thuế hay trừ các khoản chi phí chi thêm cho lao động nữ khi xác định thu nhập chịu thuế là những ưu tiên của pháp luật dành cho các doanh nghiệp.

    Theo khoản 2 Điều 6 Thông tư 78/2014/TT-BTC, các khoản chi thêm cho lao động nữ được trừ bao gồm: chi đào tạo lại nghề khi nghề cũ không còn phù hợp; tiền lương, phụ cấp (nếu có) cho giáo viên dạy ở nhà trẻ, mẫu giáo do doanh nghiệp tổ chức và quản lý; chi phí tổ chức khám sức khỏe thêm trong năm như khám bệnh nghề nghiệp, mãn tính…

    Ngoài ra, cũng theo Thông tư này, tại Điều 21, nếu doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải mà sử dụng nhiều lao động nữ thì được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tương ứng với số tiền thực chi thêm nêu trên.

    Có thể thấy, pháp luật hiện hành dành khá nhiều ưu tiên cho lao động nữ cũng như doanh nghiệp sử dụng lao động nữ. Chính vì vậy, doanh nghiệp và chính lao động nữ không nên bỏ sót những “đặc quyền” này.

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 7/2019

    Những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 7/2019

    Tăng lương cơ sở lên 1,49 triệu đồng/tháng; cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập… là những chính sách mới, luật mới có hiệu lực từ tháng 7/2019.

    Lương cơ sở tăng lên 1,49 triệu đồng/tháng từ 01/7/2019

    Nghị định 38/2019/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2019. Theo đó, kể từ thời điểm này, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng, cao hơn so với thời điểm hiện tại 100.000 đồng

    Mức lương này được dùng để: Tính lương trong bảng lương, mức phụ cấp và các chế độ cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang; Tính mức phí sinh hoạt, phí hoạt động; Tính các khoản trích và các chế độ được hưởng theo mức lương cơ sở như trợ cấp, phụ cấp…

    Lương hưu, trợ cấp BHXH tăng 7,19% từ 01/7/2019

    Từ ngày 01/7/2019 mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng sẽ được điều chỉnh tăng thêm 7,19% dựa trên mức của tháng 6/2019 đối với các đối tượng như:

    – Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động; quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu hàng tháng.

    – Cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng lương hưu, trợ cấp hàng tháng.

    – Quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng…

    Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập

    Từ 1/7, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 có 10 Chương, 96 Điều, quy định về phòng ngừa, phát hiện tham nhũng, xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Luật quy định cán bộ, công chức có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập. Nếu có hành vi kê khai không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức như cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc.

    Bên cạnh đó, các đối tượng cũng phải kê khai tài sản, thu nhập gồm có: Sĩ quan Công an nhân dân, sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân…

    16 tội danh không được đề nghị đặc xá

    Từ 1/7, theo Luật Đặc xá 2018 gồm 6 Chương, 39 Điều, quy định về nguyên tắc, thời điểm, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện đặc xá; điều kiện, quyền và nghĩa vụ của người được đề nghị đặc xá; quyền và nghĩa vụ của người được đặc xá.

    16 tội sau không được đề nghị đặc xá dù có đủ các điều kiện quy định tại Điều 11 Luật này: Tội phản bội Tổ quốc; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội gián điệp; tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; tội bạo loạn; tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội phá rối an ninh; tội chống phá cơ sở giam giữ; tội khủng bố; tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; tội chống loài người; tội phạm chiến tranh; tội tuyển mộ, huấn luyện hoặc sử dụng lính đánh thuê; tội làm lính đánh thuê.

    (Nguồn. antv.gov.vn)

  • Mẫu Phương án sử dụng lao động chi tiết nhất

    Mẫu Phương án sử dụng lao động chi tiết nhất

    Vì nhiều lý do khác nhau mà không ít doanh nghiệp hiện nay cần đến phương án sử dụng lao động. Dưới đây chúng tôi cung cấp Mẫu Phương án sử dụng lao động chi tiết nhất.

    Các trường hợp phải xây dựng phương án sử dụng lao động

    Theo quy định tại Bộ luật Lao động 2012, có 04 trường hợp doanh nghiệp phải xây dựng phương án sử dụng lao động khi ảnh hưởng đến việc làm của nhiều người lao động:

    (1) Thay đổi cơ cấu, công nghệ (thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động; thay đổi sản phẩm, cơ cấu sản phẩm; thay đổi quy trình, công nghệ, máy móc, thiết bị gắn với ngành, nghề)

    (2) Lý do kinh tế (khủng hoảng, suy thoái kinh tế; thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc cam kết quốc tế)

    (3) Sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp

    (4) Chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản

    Ngoài ra, theo Thông tư 07/2018/TT-BLĐTBXH, doanh nghiệp Nhà nước và công ty TNHH 1 thành viên do doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ khi cổ phần hóa cũng buộc phải có phương án sử dụng lao động.

    Hướng dẫn lập Phương án sử dụng lao động:

    (1) Tên đầy đủ, chính xác của doanh nghiệp theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Quyết định thành lập.

    (2) Ngày, tháng, năm thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Quyết định thành lập.

    (3) Số Giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp hoặc số Quyết định thành lập.

    (4) Với doanh nghiệp có nhiều chi nhánh, văn phòng đại diện thì chỉ ghi địa chỉ trụ sở chính.

    (5) Hình thức sắp xếp lại: chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, thay đổi cơ cấu, công nghệ, lý do kinh tế, chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản doanh nghiệp.

    (6) Mỗi mục trong bảng phương án sử dụng lao động đều phải lập danh sách chi tiết kèm theo.

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Nhiều chính sách mới có hiệu lực từ tháng 6/2019

    Nhiều chính sách mới có hiệu lực từ tháng 6/2019

    Một trong những chính sách mới nổi bật có hiệu lực trong tháng 6/2019 là Nghị định 34/2019/NĐ-CP về cán bộ, công chức cấp xã…

    Cán bộ – Công chức – Viên chức

    Giảm số lượng của cán bộ, công chức cấp xã

    Từ ngày 25/6/2019, Nghị định 34/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố sẽ chính thức có hiệu lực.

    Theo Nghị định mới này, số lượng cán bộ, công chức cấp xã được giảm xuống chỉ còn:

    • Loại 1: Tối đa 23 người (trước đây là 25 người)
    • Loại 2: Tối đa 21 người (trước đây là 23 người)
    • Loại 3: Tối đa 19 người (trước đây là 21 người).

    Đối với xã, thị trấn bố trí Trưởng công an xã là công an chính quy thì số lượng cán bộ, công chức nêu trên giảm 01 người.

    Số lượng cán bộ, công chức cấp xã bao gồm cả cán bộ, công chức được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã…

    Giao thông

    Say rượu có thể không được lên máy bay

    Tại Thông tư 13/2019/TT-BGTVT có hiệu lực từ ngày 1/6/2019, Bộ Giao thông Vận tải cho phép các hãng hàng không có thể từ chối chở hành khách mất khả năng làm chủ hành vi do sử dụng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác.

    Với các trường hợp hành khách bị bệnh tâm thần, việc chấp nhận chở hay không do đại diện hãng hàng không đánh giá và quyết định.

    Nếu chấp nhận chở hành khách bị bệnh tâm thần, phải đáp ứng các yêu cầu như có bác sĩ hoặc thân nhân đi kèm có khả năng kiềm chế được hành vi bất thường của khách…

    Cũng theo Thông tư này, hành khách được mang tối đa 01 lít chất lỏng lên các chuyến bay quốc tế; dung tích mỗi bình chứa 100ml và phải được đóng kín hoàn toàn.

    Giáo dục – Đào tạo – Dạy nghề

    Bãi bỏ Thông tư 31/2018/TT-BGDĐT về thời gian tập sự của giáo viên

    Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 09/2019/TT-BGDĐT bãi bỏ Thông tư 31/2018/TT-BGDĐT quy định thời gian tập sự theo chức danh nghề nghiệp giáo viên, giảng viên trong các cơ sở giáo dục công lập.

    Thay vào đó, thời gian tập sự trong trường hợp này được thực hiện theo quy định tại khoản 11 Điều 2 Nghị định 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ.

    Cụ thể:

    • 12 tháng với chức danh yêu cầu tiêu chuẩn trình độ đào tạo đại học
    • 09 tháng với chức danh có yêu cầu tiêu chuẩn trình độ đào tạo cao đẳng
    • 06 tháng với chức danh yêu cầu tiêu chuẩn trình độ đào tạo trung cấp

    Thông tư 09/2019/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 29/6/2019.

    Văn hóa – Thể thao – Du lịch

    Vận động viên giải nghệ được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm

    Đây là nội dung được Chính phủ nêu tại Nghị định 36/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao.

    Cụ thể, vận động viên đội tuyển thể thao quốc gia, đội tuyển thể thao ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi thôi làm vận động viên nếu có nhu cầu đào tạo nghề và đủ điều kiện thì được hỗ trợ đào tạo nghề.

    Riêng vận động viên đạt huy chương tại Olympic Games, ASIAD, SEA Games được ưu tiên xét tuyển đặc cách vào làm việc tại các cơ sở thể thao công lập phù hợp với vị trí việc làm cần tuyển dụng; được cộng điểm ưu tiên trong tuyển dụng tại các cơ sở thể thao; được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự…

    Nghị định này có hiệu lực từ ngày 14/6/2019.

    Y tế- Sức khỏe

    Có 640 loại thuốc sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu điều trị

    Danh mục thuốc sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu về điều trị, giá thuốc và khả năng cung cấp đã được Bộ Y tế công bố.

    Theo đó, có 640 loại thuốc, hoạt chất sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu về điều trị, giá thuốc và khả năng cung cấp. Cụ thể: Ampicillin 1g; Cao bạch quả 40mg; Cồn 700; Paracetamol 500mg; Vitamin các loại; Glucosamin 500mg; Acid amin 5%; Biotin 5mg;…

    Các loại thuốc thuộc Danh mục này đảm bảo được 03 tiêu chí:

    • Sản xuất tại các cơ sở sản xuất trong nước đã được cấp giấy đăng ký lưu hành;
    • Có giá cả hợp lý, không cao hơn so với thuốc nhập khẩu có tiêu chí kỹ thuật tương đương;
    • Có khả năng cung cấp cho các cơ sở điều trị trên cả nước.

    Danh mục này được ban hành kèm theo Thông tư 03/2019/TT-BYT, có hiệu lực từ ngày 1/6/2019.

    Ngưỡng giới hạn của clo, sắt, chì trong nước sinh hoạt

    Được ban hành từ cuối năm 2018, nhưng từ ngày 15/6/2019, Thông tư 41/2018/TT-BYT về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch sử dụng cho sinh hoạt mới chính thức có hiệu lực.

    Thông tư này đặt ra ngưỡng giới hạn cho phép của một số chất vô cơ có trong nước sạch sử dụng cho sinh hoạt như sau:

    • Clo dư tự do: trong khoảng 0,2 – 1 mg/l
    • Chì: 0,01mg/l
    • Đồng: 1mg/l
    • Nhôm: 0,2mg/l
    • Sắt: 0,03mg/l
    • Thủy ngân: 0,001mg/l…

    Thông tư này cũng yêu cầu mỗi đơn vị cấp nước phải được ngoại kiểm định kỳ 01 lần/năm và được kiểm tra đột xuất trong các trường hợp như: Khi có nghi ngờ về chất lượng nước; Xảy ra sự cố môi trường; Khi có phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về chất lượng nước…

    Nông nghiệp – Lâm nghiệp

    Săn bắn, giết động vật rừng trái phép bị phạt đến 400 triệu đồng

    Nghị định 35/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lâm nghiệp sẽ được áp dụng từ ngày 10/6/2019.

    Nghị định nêu rõ, hành vi săn bắn, giết, nuôi, nhốt động vật rừng trái quy định bị phạt tiền từ 05 – 400 triệu đồng; ngoài ra còn bị áp dụng một số hình thức xử phạt bổ sung.

    Hành vi đốt lửa, sử dụng lửa để săn bắt động vật rừng, lấy mật ong, lấy phế liệu chiến tranh có thể bị phạt từ 1,5 – 03 triệu đồng.

    Các hành vi chặt, đốt, phát cây rừng, đào, bới, san ủi, nổ mìn; đắp đập, ngăn dòng chảy tự nhiên, xả chất độc… gây thiệt hại đến rừng với bất kỳ mục đích gì mà không được phép sẽ bị xử phạt đến 200 triệu đồng.

    Theo Nghị định này, mức phạt tiền cao nhất đối với cá nhân có các hành vi vi phạm trong lĩnh vực lâm nghiệp là 500 triệu đồng và với tổ chức có cùng hành vi vi phạm là 01 tỷ đồng.

    Thuế- Phí – Lệ phí

    Phí sát hạch cấp chứng chỉ nghiệp vụ bảo vệ 20.000 đồng/lần

    Thông tư 23/2019/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định cụ thể về các mức phí thẩm định điều kiện thuộc lĩnh vực an ninh; phí sát hạch cấp chứng chỉ nghiệp vụ bảo vệ, lệ phí cấp giấy phép quản lý pháo…

    Theo đó:

    • Phí thẩm định điều kiện thuộc lĩnh vực an ninh: 300.000 đồng/lần
    • Phí sát hạch cấp chứng chỉ nghiệp vụ bảo vệ: 20.000 đồng/lần
    • Lệ phí cấp giấy phép quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ: 10.000 đồng/giấy
    • Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ: 10.000 đồng/giấy
    • Giấy phép mang các loại đạn vào, ra khỏi lãnh thổ Việt Nam: 50.000 đồng – 150.000 đồng/giấy, tùy số lượng viên đạn…

    Thông tư này có hiệu lực từ ngày 5/6/2019

    Lao động – Tiền lương – Phụ cấp

    Lương nhân viên thí nghiệm trong trường trung học từ 3,1 triệu/tháng

    Thông tư 08/2019/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về xếp lương nhân viên thiết bị, thí nghiệm trong các trường trung học và trường chuyên biệt công lập sẽ có hiệu lực từ ngày 17/6/2019.

    Theo Thông tư này, viên chức được bổ nhiệm vào chức danh nhân viên thiết bị, thí nghiệm được áp dụng bảng lương viên chức loại A0 ban hành kèm theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP.

    Cụ thể, đối tượng viên chức này được xếp lương từ bậc 1 (hệ số 2,1) đến bậc 10 (hệ số 4,89). Nếu tính theo mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng từ ngày 1/7/2019 thì mức lương dao động từ 3.129.000 đồng/tháng – 7.286.100 đồng/tháng.

    Tài chính – Ngân hàng

    Cách xác định mức khoán kinh phí sử dụng xe công

    Để hướng dẫn Nghị định 04/2019/NĐ-CP về định mức sử dụng ô tô trong các cơ quan Nhà nước, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 24/2019/TT-BTC.

    Theo hướng dẫn của Thông tư này, mức khoán kinh phí sử dụng xe đối với công đoạn đưa, đón từ nơi ở đến cơ quan và ngược lại được xác định theo hình thức khoán theo km thực tế và khoán gọn.

    Trong đó:

    • Khoán theo km thực tế được tính bằng số km từ nơi ở đến cơ quan và ngược lại x số ngày làm việc thực tế trong tháng x đơn giá khoán.
    • Khoán gọn được tính bằng số km bình quân từ nơi ở đến cơ quan và ngược lại x số ngày đưa đón bình quân hàng tháng x đơn giá khoán.

    Thông tư này được áp dụng từ ngày 6/6/2019.

    Mua cổ phần doanh nghiệp nhà nước phải đặt cọc từ 10 – 20%

    Bộ Tài chính đã có hướng dẫn việc bán cổ phần lần đầu và chuyển nhượng vốn Nhà nước theo phương thức dựng sổ tại Thông tư 21/2019/TT-BTC.

    Theo Thông tư này, nhà đầu tư công chúng có trách nhiệm nộp tiền đặt cọc bằng 10% giá trị cổ phần đặt mua tính theo giá mở sổ;

    Nhà đầu tư chiến lược có trách nhiệm nộp tiền đặt cọc, ký quỹ hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với giá trị bằng 20% giá trị cổ phần đăng ký mua, tính theo giá khởi điểm trong phương án cổ phần hóa.

    Tiền đặt cọc được trừ vào tổng số tiền phải thanh toán mua cổ phần. Trường hợp số tiền đặt cọc lớn hơn số tiền phải thanh toán, nhà đầu tư được hoàn trả lại phần chênh lệch.

    Xuất nhập khẩu

    Không nhập khẩu máy móc, thiết bị cũ trên 10 năm tuổi

    Quyết định 18/2019/QĐ-TTg quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành và sẽ có hiệu lực từ ngày 15/6/2019.

    Quyết định này đặt ra một số tiêu chí nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị đã qua sử dụng như sau:

    • Tuổi thiết bị không quá 10 năm; riêng một số loại máy móc, thiết bị lĩnh vực cơ khí, sản xuất, chế biến gỗ, sản xuất giấy và bột giấy cho phép có tuổi không quá 15 – 20 năm.
    • Được sản xuất theo tiêu chuẩn phù hợp với QCVN về an toàn, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường…

    Đồng thời, không cho phép nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng trong các trường hợp các nước xuất khẩu đã loại bỏ do lạc hậu, chất lượng kém, gây ô nhiễm môi trường…

    Hành chính

    Thủ tục biên phòng điện tử cửa khẩu biên giới đất liền thực hiện 24/24

    Ngày 1/6/2019 cũng là ngày có hiệu lực của Quyết định 15/2019/QĐ-TTg về thực hiện thủ tục biên phòng điện tử tại các cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý.

    Quyết định này nêu rõ, thủ tục biên phòng điện tử cửa khẩu biên giới đất liền được thực hiện 24/24 giờ hàng ngày, kể cả ngày nghỉ, ngày lễ.

    Người làm thủ tục khai báo hồ sơ biên phòng điện tử và nhận xác nhận hoàn thành khai báo thủ tục biên phòng điện tử cửa khẩu biên giới đất liền bằng tài khoản đã được cấp tại bất kỳ nơi nào có thể truy cập Internet.

    Biên phòng của khẩu biên giới đất liền thực hiện thủ tục biên phòng điện tử tại Nhà kiểm soát liên hợp cửa khẩu cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính.

    Quyết định này do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Nhiều công ty Nhật không muốn tuyển lao động nước ngoài theo chế độ visa mới

    Nhiều công ty Nhật không muốn tuyển lao động nước ngoài theo chế độ visa mới

    Chỉ một phần tư các công ty Nhật dự định sẽ tuyển dụng lao động nước ngoài theo chương trình mới của chính phủ, theo kết quả một cuộc trưng cầu của Reuters.

    Điều này làm phức tạp thêm nỗ lực làm giảm thiếu hụt về nhân lực trong thị trường lao động Nhật Bản của Thủ tướng Shinzo Abe.

    Đối với người lao động Việt Nam, chương trình visa mới của thực chất không khác chế độ thực tập sinh cũ là mấy, và thậm chí còn có nhiều rào cản hơn về tiếng Nhật và kỹ năng, một blogger và kỹ sư IT người Việt sống ở Nhật lâu năm bình luận.

    Chính sách thị thực mới của Nhật, có hiệu lực từ tháng Tư, đưa ra hai loại visa mới cho người lao động ở 14 ngành nghề như xây dựng, điều dưỡng viên – những ngành đang thiếu lao động trầm trọng. Chính sách mới được kỳ vọng sẽ thu hút tới 345 ngàn người lao động chân tay sang Nhật trong 5 năm tới.

    Theo luật mới, những người sang Nhật theo loại visa kỹ năng đặc định có thể ở Nhật đến 5 năm nhưng không được đưa gia đình sang.

    Một loại visa khác dành cho những người có trình độ và kỹ năng cao hơn. Họ có thể đưa gia đình theo và được ở Nhật làm việc lâu hơn.

    Cuộc Khảo sát Doanh nghiệp của Reuters cho thấy đa số các hãng xưởng Nhật sẽ tiếp nhận lao động nước ngoài không dự định hỗ trợ họ về chỗ ăn ở, học tiếng Nhật hay tìm thông tin về cuộc sống ở Nhật Bản.

    Chế độ thị thực mới không khác chế độ TTS cũ là mấy

    Theo chế độ thị thực mới, những ai muốn sang Nhật lao động cần phải thi tiếng Nhật và thi tay nghề.

    Về mặt nguyên tắc, chính phủ Nhật có kế hoạch tổ chức thi ở chín quốc gia – Phillippines, Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Cambodia, Nepal và Mông Cổ,…

    Hiện vẫn chưa có thông tin cụ thể về kỳ thi nào sẽ được tổ chức ở nước nào, theo tờ Asahi Shimbun.

    Chế độ thị thực mới

    “Cái visa mới này được báo chí và chính phủ Nhật nói rộng rãi rằng đây là ‘chế độ tiếp nhận lao động một cách có hạn chế’. Lần đầu tiên họ sử dụng từ lao động, chứ không nói là thực tập sinh. Đây cũng là một cái tích cực và như vậy người lao động sẽ có quyền lợi về mặt pháp luật.

    “Thế nhưng trên quan điểm của người lao động, chúng ta có thể thấy là chế độ mới này gần như không khác gì chế độ thực tập sinh (TTS) là mấy. Nó như là một chương trình TTS kéo dài mà thôi.

    “Ví dụ theo visa mới họ được ở Nhật 5 năm. Nhưng trong 5 năm đó họ cũng không được dẫn theo gia đình, họ phải đi một mình. Bạn tưởng tượng một thời gian 3 hay 5 năm như thế, một thời tuổi trẻ đi mà không được lập gia đình, cũng rất khó để về nước thăm nhà, thì cuộc sống sẽ như thế nào?

    “Và visa mới, cũng như chế độ TTS, đều áp dụng cho các ngành nghề chân tay là chủ yếu. Những ngành nghề nào, mỗi ngành nhận bao nhiêu lao động đều được khống chế về con số trước chứ không phải cứ thiếu là nhận vào.”

    Theo chế độ TTS, người lao động có thể đi Nhật một cách dễ dàng hơn vì các nghiệp đoàn và công ty tiếp nhận của Nhật bỏ qua những điều kiện chặt chẽ về tiếng Nhật hay kỹ năng.

    “Thâm chí họ có thể chấp nhận sự dối trá của các công ty môi giới ở trong nước. (Ví dụ người ta cần người có trình độ về hàn thì họ giả vờ trên hồ sơ là biết một chút về hàn, rồi đi học tiếp).

    “Còn ở chương trình visa mới, không còn tồn tại các nghiệp đoàn nữa, mà chỉ có các công ty tiếp nhận đằng sau … Nên tôi cho rằng, về kết quả, nhiều người lao động vẫn chọn chương trình TTS để đi một cách dễ dàng hơn,” blogger nhận định.

    Vì sao nhiều công ty Nhật không mặn mà với chế độ visa mới?

    Khảo sát của Reuters cũng cho thấy tiếng Nhật yếu, khoảng cách về văn hóa, chi phí đào tạo, sự khập khiễng về kỹ năng và tình trạng nhiều người lao động không được ở Nhật lâu dài theo chế độ mới là những nhân tố khiến các doanh nghiệp ngần ngại tuyển dụng lao động nước ngoài.

    Khảo sát của Reuters cho thấy chính phủ Nhật khó có thể thu hút người lao động trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực, nơi cứ một người tìm việc thì có tới có 1.63 việc làm, tỷ lệ cao nhất từ năm 1974.

    “Tính cả chi phí giáo dục, rủi ro về chất lượng người lao động và sản lượng, chi phí sẽ tăng lên” nếu thuê lao động nước ngoài, một giám đốc công ty sản xuất cao su viết. Ông cũng cho biết công ty ông không có kế hoạch thuê lao động nước ngoài.

    “Trước đây, chúng tôi đã gặp thất bại khi thuê lao động nước ngoài mà họ không thể hòa nhập với một nền văn hóa khác,” một quản lý của hãng sản xuất mặt hàng kim loại viết.

    Khoảng 41% các doanh nghiệp không tính đến chuyện thuê người nước ngoài, 34% không định thuê nhiều lao động nước ngoài và 26% dự định sẽ thuê nhiều, khảo sát được thực hiện từ ngày 8 đên 17 tháng Năm cho thấy.

    Cuộc khảo sát, được Nikkei Research thực hiện hàng tháng cho Reuters, hỏi ý kiến 477 công ty vừa và lớn, với các giám đốc hay trưởng phòng trả lời với điều kiện ẩn danh. Khoảng 220 công ty trả lời các câu hỏi về người lao động nước ngoài.

    Mặc dù lao động nước ngoài được coi là nguồn lao động rẻ ở Nhật, 77% các công ty không thấy có thay đổi về mức lương nói chung khi thuê các lao động đặc định. Khoảng 16% trông đợi mức lương sẽ giảm và chỉ 6% cho rằng lương sẽ tăng.

    Lao động nước ngoài sẽ “giúp làm giảm tình trạng thiếu lao động, làm giảm mức lương chung,” một chủ doanh nghiệp sản xuất thép viết trong phiếu khảo sát.

    Những người ủng hộ Thủ tướng Abe lo ngại tình trạng tội phạm tăng và đe dọa thay đổi kết cấu của xã hội. Nhưng ông khẳng định rằng luật mới sẽ không dẫn đến “một chính sách nhập cư”.

    Nhật Bản hiện có khoảng 1,28 triệu lao động nước ngoài, tăng gấp đôi so với 10 năm trước. Tuy nhiên họ vẫn chỉ chiếm 2% tổng lực lượng lao động.

    Trong số này, khoảng 260.000 lao động là thực tập sinh từ các nước như Việt Nam và Trung Quốc, những người có thể ở Nhật từ ba đến 5 năm.

    (Nguồn. BBC)

  • CẦN THƠ: Góp ý dự thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi)

    CẦN THƠ: Góp ý dự thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi)

    LĐLĐ TP Cần Thơ sáng 20-5 đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến tham gia dự thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi).

    Góp ý về đề xuất nâng tuổi nghỉ hưu của người lao động (NLĐ), nhiều ý kiến đề nghị ban soạn thảo cần cân nhắc kỹ những tác động tiêu cực đến thị trường lao động. Ngoài ra, cần tính đến đặc thù ngành, nghề của từng lĩnh vực để không gây thiệt thòi quyền thụ hưởng của NLĐ. Đối với vấn đề làm thêm giờ, đa số ý kiến cho rằng không nên quy định giờ làm thêm tối đa trong tháng; nếu làm 400 giờ/năm thì doanh nghiệp phải có sự đồng thuận của NLĐ.

    Tại hội nghị, các đại biểu cũng góp ý một số vấn đề khác trong dự thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi) như: mở rộng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NLĐ; tổ chức đại diện của NLĐ tại cơ sở; thương lượng tập thể, thỏa ước lao động tập thể; về tranh chấp lao động tập thể và đình công; thời gian nghỉ Tết âm lịch và bổ sung 1 ngày nghỉ thương binh – liệt sĩ (27-7).

    (Nguồn. Người lao động)
  • Đề xuất nới rộng khung thời gian làm thêm của người lao động

    Đề xuất nới rộng khung thời gian làm thêm của người lao động

    Dự thảo luật Lao động sửa đổi do Bộ LĐ-TB-XH vừa công bố đề xuất mở rộng khung làm thêm giờ từ 300 giờ lên 400 giờ trong một số trường hợp.

    Theo Tờ trình, Bộ Luật Lao động hiện hành quy định số giờ làm thêm tối đa của NLĐ là không quá 50% số giờ làm việc bình thường/ngày, 30 giờ/tháng và tổng số không quá 200 giờ/năm, trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ không quá 300 giờ/năm (tuy nhiên, doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh).

    Thời gian qua, Ban soạn thảo đã nhận được nhiều ý kiến đề xuất nghiên cứu sửa đổi Bộ luật theo hướng mở rộng khung thỏa thuận về giờ làm thêm tối đa với các lý do như: Đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động và tăng sự linh hoạt trong bố trí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

    Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài có ý kiến cho rằng giới hạn làm thêm giờ tối đa theo tháng, theo năm đang ở mức thấp và đề xuất sửa đổi quy định này theo hướng mở rộng khung thỏa thuận về giờ làm thêm tối đa theo năm để vừa bảo đảm tốt hơn quyền làm việc của NLĐ nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, đồng thời đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra của cải vật chất cho xã hội cũng như đảm bảo tính cạnh tranh của thị trường lao động so với các quốc gia trong khu vực.

    Ngoài ra, có ý kiến cho rằng quy định của Bộ luật Lao động hiện hành đang khống chế số giờ làm thêm thấp hơn tiêu chuẩn các nhãn hàng/người mua hàng cũng đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp gia công hàng xuất khẩu. Trên thực tế, các doanh nghiệp dệt may, da giày, chế biến thủy sản, lắp ráp linh kiện điện tử… thường phải tổ chức làm thêm giờ trong những tháng cao điểm để hoàn thành tiến độ đơn hàng dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong nước về giới hạn làm thêm giờ trong khi chưa vi phạm tiêu chuẩn của nhãn hàng.

    Do đó, việc mở rộng khung thỏa thuận về làm thêm giờ sẽ đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, tăng tính linh hoạt khi tổ chức làm thêm giờ và góp phần tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

    Đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người lao động và góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi tiền lương của NLĐ. Thực tiễn thực hiện quy định về làm thêm giờ cho thấy, một bộ phận không nhỏ người lao động cũng mong muốn nâng giới hạn giờ làm thêm để có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

    Báo cáo của một số địa phương, doanh nghiệp thời gian qua cho thấy: Một số doanh nghiệp khó tuyển dụng người lao động vì không tổ chức làm thêm giờ hoặc nếu không có cam kết làm thêm giờ thì người lao động sẽ bỏ việc để chuyển sang doanh nghiệp khác có làm thêm giờ; Để nâng cao thu nhập thì người lao động khi hết giờ làm việc chính thức và làm thêm giờ theo quy định, họ chuyển sang làm việc thêm cho doanh nghiệp khác.

    Thời gian làm việc ở doanh nghiệp khác chỉ được hưởng lương tiêu chuẩn (100% tiền lương) thay vì được hưởng lương làm thêm giờ cao hơn (ít nhất bằng 150%) ở doanh nghiệp cũ nếu được làm thêm giờ vượt quá quy định. Do đó, việc mở rộng khung thỏa thuận về làm thêm giờ sẽ đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận người lao động, bảo vệ tốt hơn quyền lợi tiền lương của người lao động nếu họ có nhu cầu làm thêm giờ.

    Các nước có năng suất lao động (GDP cho mỗi giờ làm việc) cao như Nauy (>= 100 USD/giờ) thì NLĐ làm việc chỉ 1400 giờ/năm; ngược lại các nước năng suất thấp (= 0 – 20 USD/giờ như Campuchia, Bangladesh, Pakistan, Ấn Độ, Indonexia, Malayxia) thì NLĐ làm việc từ 2.000-2.400 giờ/năm. Từ kinh nghiệm quốc tế nêu trên, trong bối cảnh Việt Nam với thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình thấp (2.340 USD vào năm 2017 theo số liệu của Worldbank), năng suất lao động còn ở mức thấp, tỷ trọng các ngành thâm dụng lao động có giá trị gia tăng thấp vẫn còn lớn (các ngành sản xuất gia công, lắp ráp linh kiện điện tử, dệt may, thủy sản, da giầy, chế biến gỗ…) thì nhu cầu mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ là nhu cầu có thực để góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.

    Phương án trong dự thảo cho thấy, sau khi nghiên cứu và tham vấn ý kiến các cơ quan liên quan, Ban soạn thảo thấy rằng việc mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ tối đa là cần thiết và áp dụng trong một số trường hợp đặc biệt, đối với một số ngành nghề sản xuất kinh doanh nhất định. Ban soạn thảo đề xuất mức mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ trong các trường hợp đặc biệt này sẽ tăng thêm 100 giờ/năm so với hiện hành: từ tối đa 300 giờ/năm lên 400 giờ/năm.

    Để khắc phục những tác động tiêu cực về làm thêm giờ và bảo bảo đảm sức khỏe trước mắt cũng như lâu dài cho người lao động, dự thảo Bộ luật Lao động quy định các biện pháp như: Quy định nguyên tắc: trong mọi trường hợp huy động làm thêm giờ, người sử dụng lao động phải thỏa thuận với người lao động. Chỉ khi được người lao động đồng ý thì mới được huy động làm thêm giờ; Bảo đảm số giờ làm thêm trong một ngày không quá 50% số giờ làm việc bình thường; người lao động làm việc theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước khi chuyển sang ca làm việc khác.

    Các quy định này sẽ bảo đảm tổng thời gian làm việc trong ngày của người lao động là không quá 12 giờ (kể cả thời giờ làm thêm) và người lao động sẽ được nghỉ ngơi ít nhất 12 giờ mỗi ngày; Trả lương và đãi ngộ hợp lý cho người lao động khi làm thêm giờ: Tiền lương làm thêm giờ phải cao hơn tiền lương giờ làm việc tiêu chuẩn, ít nhất bằng 150% nếu làm thêm giờ vào ngày thường, 200% nếu làm việc vào ngày nghỉ hàng tuần và 300% nếu làm việc vào ngày nghỉ lễ, Tết (Điều 99 dự thảo Bộ luật). Ngoài ra, dự thảo bổ sung quy định. Việc trả lương lũy tiến cao hơn mức trên thì do hai bên thỏa thuận.

    Chính phủ sẽ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành việc tổ chức làm thêm quá 200 giờ trong một năm trong Nghị định theo nguyên tắc: doanh nghiệp phải thông báo và được chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh; doanh nghiệp không được huy động người lao động làm thêm giờ trong thời gian dài liên tục và phải bố trí thời gian nghỉ giải lao hợp lý cho người lao động khi làm thêm giờ; quy định một số ngành nghề được mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ trong trường hợp đặc biệt như đối với một số ngành nghề gia công, dệt, may, da, giày, chế biến, chế tạo, lắp ráp, công nghệ thông tin và các ngành nghề sản xuất có tính thời vụ như chế biến nông, lâm, thủy sản./.

    (Nguồn. Theo VOV)

  • Sửa Luật Lao động: 2 phương án về điều chỉnh giờ làm thêm và tuổi hưu

    Sửa Luật Lao động: 2 phương án về điều chỉnh giờ làm thêm và tuổi hưu

    “Dự thảo sửa đổi Luật Lao động đang để ngỏ phương án điều chỉnh giờ làm thêm lên 400 giờ trong điều kiện đặc biệt, mở rộng khung thoả thuận 2 bên. Đồng thời, tuổi hưu có thể tăng từ 3-6 tháng/năm từ năm 2021…” – ông Mai Đức Thiện, vụ Phó Vụ Pháp chế (Bộ LĐ-TB&XH) cho biết.

    Đây là thông tin chia sẻ tại Hội thảo về bình đẳng giới tại nơi làm việc và những điểm mới trong Bộ Luật Lao động sửa đổi do Phòng Thương mại và Công nghiệp VN tổ chức tuần đầu tháng 4 tại Hà Nội.

    Sửa Luật Lao động: 2 phương án về điều chỉnh giờ làm thêm và tuổi hưu

    Mở rộng khung thoả thuận giờ làm thêm

    Theo ông Mai Đức Thiện, dự thảo Luật đưa ra phương án nâng khung thoả thuận về giờ làm thêm giữa người lao động và người sử dụng lao động. Điều này cần thiết ở những doanh nghiệp gặp phải tình huống phải thực hiện gấp nhiều đơn hàng hoặc liên tục thay đổi sản phẩm.

    Trên cơ sở đó, doanh nghiệp cần huy động lao động làm việc tăng thời gian để hoàn thành mục tiêu. Ông Thiện cũng cho biết thêm, qua khảo sát thực tế, nhiều người lao động cũng có nhu cầu làm thêm giờ để tăng thu nhập.

    “Trên cơ sở đó, dự thảo sửa đổi Luật Lao động có nêu 2 phương án. Phương án 1: Giữ nguyên quy định hiện hành về giờ làm thêm trong ngày. Tức là trong 1 ngày, người lao động được làm thêm tối đa 50 % số giờ chính thức của 1 ngày. Phương án 2: Số giờ làm thêm trong điều kiện bình thường là 200 giờ/năm, trường hợp đặc biệt tăng lên 400 giờ” – vị Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế chia sẻ.

    “Ngoài ra, dự thảo Luật Lao động sẽ bỏ quy định mốc làm thêm 30 giờ/tháng, nhằm giúp tăng sự linh hoạt về thời gian thực hiện đơn hàng của doanh nghiệp trong từng tháng” – ông Mai Đức Thiện nói.

    Tuy nhiên, điều quan trọng trong dự thảo là việc làm thêm giờ phải dựa trên sự thoả thuận của 2 bên và trong đó có sự đồng ý của người lao động.

    Hai phương án tăng tuổi hưu

    Về tuổi nghỉ hưu, ông Mai Đức Thiện cho biết: “Nghị quyết 28/NQ-T.Ư đã quy định việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của người lao động sẽ được bắt đầu từ năm 2021. Điều này nhằm thích ứng với xu hướng già hoá dân số của Việt Nam, tận dụng tối đa nguồn nhân lực có kinh nghiệm, chất lượng để phát triển kinh tế, ổn định quỹ hưu trí tử tuất trong dài hạn”.

    Trên cơ sở đó, dự thảo sửa đổi Luật Lao động đang xây dựng một số phương án điều chỉnh từ ngày 01/01/2021, theo hướng tăng tuổi hưu của lao động nam lên 62 và lao động nữ tăng lên 60 tuổi.

    Dự kiến có 2 phương án tăng tuổi nghỉ hưu đang được nghiên cứu

    “Phương án 1: Tuổi hưu của nam có thể tăng 3 tháng/năm và nữ tăng 4 tháng/năm. Phương án 2: Tuổi hưu của nam tăng 4 tháng/năm và nữ là 6 tháng/năm. Tính từ năm 2021, chúng ta cần thêm 16 năm tiếp theo để đạt được mục tiêu đưa tuổi hưu của nam lên 62 và nữ lên 60” – vị Vụ phó Vụ Pháp chế nói.

    Chia sẻ kinh nghiệm của các nước, ông Mai Đức Thiện cho biết, các nước có xu hướng quy định việc tăng tuổi hưu chậm. Đơn cử như nước Pháp, Bỉ chỉ tăng 2-3 tháng/năm, một số nước khác tăng 1 tháng/năm.

    “Mức tăng chậm này nhằm tránh tình trạng “sốc” đối với những người rời khỏi và bắt đầu tham gia thị trường lao động. Mặt khác, tránh tình trạng ra vào ồ ạt, gây biến độ tới thị trường lao động”.

    (Nguồn. Dân Trí)