Thẻ: nhận trợ cấp thôi việc

  • 3 thay đổi quan trọng về trợ cấp thôi việc từ năm 2021

    3 thay đổi quan trọng về trợ cấp thôi việc từ năm 2021

    Trợ cấp thôi việc là khoản tiền mà NSDLĐ phải trả cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ. Từ năm 2021 có những quy định mới thay đổi trợ cấp thôi việc tại Điều 48 BLLĐ năm 2012. Trong đó, nhất định phải kể đến 03 thay đổi trợ cấp thôi việc quan trọng dưới đây:

    1. Thay đổi về trường hợp được hưởng trợ cấp thôi việc

    Theo quy định tại Điều 48 BLLĐ năm 2012, khi HĐLĐ chấm dứt, NSDLĐ có trách nhiệm chi trả TCTV cho NLĐ. Tuy nhiên, về các trường hợp được hưởng TCTN, Điều 46 BLLĐ năm 2019 bổ sung một số quy định mới như sau:

    – Hết hạn HĐLĐ trừ trường hợp phải gia hạn cho NLĐ là thành viên Ban lãnh đạo tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn HĐLĐ (Hiện nay trừ trường hợp NLĐ là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn HĐLĐ);

    – NLĐ bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không được trả tự do (hiện nay là đang bị kết án tù giam), tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong HĐLĐ theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án;

    – NSDLĐ là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; không phải là cá nhân thì chấm dứt hoạt động hoặc bị thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền của người đại diện theo pháp luật (bổ sung thêm).

    Bên cạnh bổ sung trường hợp mới, BLLĐ 2019 cũng loại bỏ một số đối tượng được hưởng TCTV. Đó là NLĐ bị cho thôi việc do thay đổi cơ cấu, CN ; Vì lý do KT ; Do sáp nhật, hợp nhất, chia tách DN, hợp tác xã. Đồng thời, giữ nguyên các trường hợp chấm dứt HĐLĐ được hưởng TCTV như quy định hiện nay gồm:

    – NLĐ hoặc NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ;

    – Đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ;

    – Hai bên thoả thuận chấm dứt HĐLĐ;

    – NLĐ chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.

    Theo đó, điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc vẫn giữ nguyên theo quy định hiện nay. Đó là NLĐ đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

    2. Thêm trường hợp không được hưởng trợ cấp thôi việc

    Điều 48 BLLĐ 2012 chỉ liệt kê các trường hợp chấm dứt HĐLĐ. NSDLĐ có trách nhiệm chi trả TCTV cho NLĐ mà không nêu cụ thể trường hợp không được hưởng TCTV. Theo Điều 46 BLLĐ 2019, các trường hợp không được trợ cấp thôi việc được quy định cụ thể gồm:

    – NLĐ đủ điều kiện hưởng lương hưu (Hiện nay đang quy định là NLĐ đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH và tuổi hưởng lương hưu);

    – NLĐ tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên (Quy định mới).

    Căn cứ vào Điều 46, Điều 34 BLLĐ 2019, các trường hợp dưới đây cũng không được hưởng TCTV gồm:

    – NLĐ là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị trục xuất theo bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của CQNN có thẩm quyền (Quy định mới);

    – NLĐ bị xử lý kỷ luật sa thải (Như quy định hiện nay).

    3. Thời gian không dùng để tính trợ cấp thôi việc

    Thời gian làm việc để tính TCTV là thời gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ. Trừ thời gian NLĐ tham gia BHTN và thời gian làm việc đã được chi trả TCTV (căn cứ khoản 2 Điều 48 BLLĐ 2012).

    Trong đó:

    – Thời gian làm việc thực tế: (theo điểm a khoản 5 Điều 1 Nghị định 148/2018/NĐ-CP)

    • Thời gian làm việc thực tế theo HĐLĐ
    • Được cử đi học
    • Nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản
    • Nghỉ hàng tuần

    – Thời gian tham gia BHTN: (Theo điểm b khoản 5 Điều 1 Nghị định 148 năm 2018) Thời gian này gồm thời gian NSDLĐ đóng BHTN, chi trả cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền tương đương mức đóng BHTN.

    Như vậy, theo quy định hiện nay, thời gian làm việc tính TCTV chỉ trừ 02 khoảng thời gian:

    • Đã tham gia BHTN.
    • Đã được chi trả trợ cấp thôi việc.

    Tuy nhiên, khoản 2 Điều 46 BLLĐ 2019 đã bổ sung thêm một khoảng thời gian nữa là thời gian đã được chi trả trợ cấp mất việc làm.

    Trên đây là 3 thay đổi quan trọng về TCTV từ 2021 mỗi NLĐ đều nhất định phải nắm chắc. Theo phân tích ở trên, chỉ khi HĐLĐ chấm dứt, NLĐ mới được hưởng trợ cấp thôi việc.

    Theo Luatvietnam

  • Chưa chấm dứt hợp đồng có được nhận trợ cấp thôi việc?

    Chưa chấm dứt hợp đồng có được nhận trợ cấp thôi việc?

    Thực tế không phải lao động nào cũng nắm chắc các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho mình. Đơn cử như các khoản trợ cấp (trợ cấp thôi việc, mất việc làm…) mà người sử dụng lao động có trách nhiệm trả cho mình.

    9 trường hợp được nhận trợ cấp thôi việc

    Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012 liệt kê 09 trường hợp người lao động được nhận trợ cấp thôi việc như sau:

    – Hết hạn hợp đồng lao động;

    – Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;

    – Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động;

    – Người lao động bị tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án;

    – Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết;

    – Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;

    – Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

    – Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

    – Người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế, sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp.

    Tuy nhiên, để nhận được khoản trợ cấp này, người lao động phải làm việc thực tế cho người sử dụng lao động ít nhất là 12 tháng.

    Cac Truong Hop Duoc Huong Tro Cap Thoi Viec

    Chưa chấm dứt hợp đồng có được nhận trợ cấp thôi việc?

    Trợ cấp thôi việc như một “phần thưởng” của người sử dụng lao động dành cho người lao động sau một thời gian gắn bó làm việc. Tuy nhiên, “phần thưởng” này có thể thưởng bất cứ lúc nào?

    Theo quy định của pháp luật, cụ thể khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động nêu rõ: Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này (các trường hợp đã nêu ở trên) mà có thời gian làm việc thực tế nhiều hơn thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp nửa tháng tiền lương.

    Điều này đồng nghĩa với việc, chỉ khi hợp đồng lao động chấm dứt, quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động kết thúc thì người lao động mới được nhận trợ cấp thôi việc.

    Mọi hành vi thỏa thuận để nhận trợ cấp khi vẫn tiếp tục làm việc hoặc trả trước trợ cấp thôi việc để buộc người lao động thôi việc… đều bị coi là trái pháp luật.

    (Nguồn. Luatvietnam)