Thẻ: chính sách thuế thu nhập cá nhân

  • Thuế thu nhập cá nhân quá lỗi thời

    Thuế thu nhập cá nhân quá lỗi thời

    Giá cả các hàng hóa dịch vụ thiết yếu tăng liên tục qua các năm nhưng thuế thu nhập cá nhân đã 6 năm rồi không thay đổi, khiến số tiền đóng thuế của người dân cao hơn, thu nhập thực tế teo tóp lại.

    Học thì khỏi ăn, khỏi mặc

    • Luật Thuế thu nhập cá nhân đã quá lạc hậu so với sự phát triển của kinh tế cũng như nhiều mô hình kinh doanh cá thể khác. Vì vậy cần phải có sự thay đổi nhanh để người đóng thuế không cảm thấy bị đối xử mất công bằng. >>> TS Lê Đạt Chí, Phó trưởng khoa Tài chính, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM

    Đó là than thở của rất nhiều bậc phụ huynh là cán bộ công nhân viên đang hưởng mức chiết trừ gia cảnh 3,6 triệu đồng/người theo luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện hành.

    Chị Lê Kim (Q.7, TP.HCM) cho biết:

    Con gái lớn của chị vào Trường ĐH Ngoại thương cơ sở tại TP.HCM từ năm học 2016 – 2017, lúc đó học phí là 18 triệu đồng/năm thì đến nay chuẩn bị bước vào năm thứ tư, học phí ước tính lên mức hơn 24 triệu đồng/năm. Cậu con trai nhỏ năm 2018 vào học Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (TP.HCM) học phí khoảng hơn 1,5 triệu đồng/tháng. “Cả hai đứa đều phải theo học 3 khóa Anh văn mỗi năm với học phí 15 triệu đồng/khóa; học thêm các môn khác như toán, ngoại ngữ thứ hai…

    Tính tổng cộng nuôi một học sinh cấp 3 tốn kém có khi cao hơn cả học ĐH. Dù mình không ghi rõ từng khoản chi nhưng ước tính mỗi tháng, 2 đứa con đang đi học mình phải chi trả lên gần 15 triệu đồng. Đó chỉ là những khoản chi phí chính, chưa kể ăn mặc, sinh hoạt ngoại khóa, tiền khám chữa bệnh… Vậy mà chỉ cho khấu trừ một người phụ thuộc có 3,6 triệu đồng, nói thật là có khéo co đến đâu thì cũng đóng tiền học thì nhịn ăn, nhịn mặc còn chưa đủ”, chị Lê Kim nói.

    Nếu nhìn vào mặt bằng giá trên thị trường, sự lỗi thời của thuế TNCN có thể nói là vô cảm. Đơn giản là cách đây mấy năm tiền gửi xe máy chỉ khoảng 2.000 – 5.000 đồng/chiếc tùy chỗ, còn hiện nay hầu hết lên 5.000 – 10.000 đồng. Với các mặt hàng thiết yếu, hơn 6 năm qua mỗi lít xăng đã tăng thêm 12 – 15% tùy loại; điện tăng 23,5%; học phí, viện phí… mọi cái đều tăng. Nghĩa là chi phí tối thiểu đã tăng mạnh nhưng thuế TNCN không được điều chỉnh khiến người dân phải đóng thuế nhiều hơn.

    Đáng nói là theo quy định, trường hợp CPI biến động trên 20% so với thời điểm luật có hiệu lực thi hành thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo. Thế nhưng tính đến thời điểm này, sau hơn 6 năm áp dụng luật Thuế TNCN, CPI đã tăng xấp xỉ 24%, hết năm nay khoảng 26% thì các ngưỡng thuế quá lỗi thời này vẫn đứng y.

    Tinh Trang Thue Thu Nhap Ca Nhan

    Không khuyến khích tăng năng suất lao động

    TS Lê Đạt Chí, Phó trưởng khoa Tài chính, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, nhận định:

    CPI từ 2013 đến nay tăng hơn 23% là chỉ tính theo kiểu số học. Nếu tính ở từng nhóm hàng thì mức tăng sẽ cao hơn nhiều. Chiếu theo luật đã đến lúc các quy định khấu trừ gia cảnh phải được thay đổi.

    Theo TS Lê Đạt Chí, ngoài việc phải nâng mức giảm trừ cho người nộp thuế lẫn người phụ thuộc thì khoảng cách giữa các bậc thuế cũng phải được tính toán lại. Bởi hiện nay, các loại chi phí sinh hoạt hằng ngày đang gây ảnh hưởng rất lớn cho người nộp thuế, nhất là người làm công ăn lương. Đồng thời, cần xác định lại mức thu nhập như thế nào là cao để đưa ra biểu thuế phù hợp. Ví dụ trên 5 – 10 triệu thuế suất 10% là thuế quá cao. Hay từ 18 – 32 triệu thuế suất 20% cũng không hợp lý. “Với biểu thuế hiện hành, nhiều người không muốn đóng góp công sức nhiều hơn. Chẳng hạn với các giáo viên, nếu trong trường tăng cường dạy thêm các khóa học và tính tổng thu nhập chịu thuế họ phải đóng lên mức 20%.

    Trong khi đó nếu họ đi dạy ở các trung tâm bên ngoài thì chỉ đóng thuế 10%”, ông Chí dẫn chứng và cho rằng, Chính phủ nên nghiên cứu sửa đổi luật Thuế TNCN trong đó đưa ra giải pháp kích thích tiêu dùng vì có lợi cho nền kinh tế. Chẳng hạn cho phép người dân được tự quyết toán và cho khấu trừ các chi phí sinh hoạt hằng ngày, như khám chữa bệnh, ăn mặc, học phí cho con cái, thậm chí cả chi phí xăng xe. Từ đó cũng có tác động ngược lại đến việc nhà nước tăng thu được các loại thuế thông qua kiểm soát doanh thu của các cửa hàng cá nhân hay người buôn bán qua mạng.

    Hiện nay rất nhiều hoạt động kinh doanh cá thể đóng thuế rất thấp; nhiều người có thu nhập rất cao từ kinh doanh qua mạng nhưng không phải đóng thuế hoặc chỉ đóng thuế khoán bèo bọt trong khi người làm công ăn lương lại bị đóng thuế quá nhiều. “Luật Thuế TNCN đã quá lạc hậu so với sự phát triển của kinh tế cũng như nhiều mô hình kinh doanh cá thể khác. Vì vậy cần phải có sự thay đổi nhanh để người đóng thuế không cảm thấy bị đối xử mất công bằng”, TS Lê Đạt Chí chia sẻ thêm.

    Khoảng cách giữa các bậc thuế bất hợp lý đã được đề cập rất nhiều lần trước đây và có không ít chuyện bi hài quanh câu chuyện này. Chẳng hạn một người làm việc cho một công ty IT tại TP.HCM kể, chị mới lãnh lương tháng 7 vào ngày 20 vừa rồi và “vô cùng đau khổ vì tháng này thu nhập tăng thêm vài trăm ngàn đồng”. Hỏi sao thu nhập tăng lại buồn, chị nói, chỉ vì vài trăm ngàn đó mà chị rơi vào ngưỡng thuế cao gấp đôi, số tiền bị khấu trừ còn hơn số thu nhập tăng thêm. “Công ty tôi tính hệ số lương theo năng suất lao động hằng tháng nên thu nhập cũng thay đổi liên tục. Cứ mỗi lần lãnh lương là mọi người lại phập phồng sợ rơi vào tình trạng thu nhập tăng ít mà thuế trừ nhiều như trường hợp tôi tháng vừa rồi”, chị này nói.

    Thu nhập tăng ít, thuế tăng nhiều

    Luật sư Trần Xoa, Giám đốc Công ty luật Minh Đăng Quang, cho hay trong chương trình Quốc hội năm 2019 và cả năm 2020 không thấy đưa việc sửa đổi luật thuế này vào. Trong khi với mức giảm trừ gia cảnh thấp như hiện nay đang tạo áp lực lên người nộp thuế bởi mức họ phải nộp tăng lên nhiều so với trước.

    Cụ thể, thu nhập bình quân đầu người năm 2018 của VN ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017. Như vậy, so với năm 2013, thu nhập bình quân tăng 17,27 triệu đồng, tương ứng 41,8%. Ông Trần Xoa tính toán, một người nộp thuế năm 2013 có thu nhập 20 triệu đồng/tháng, trừ mức giảm trừ gia cảnh 9 triệu đồng, số thuế người này nộp khoảng 900.000 đồng. Trường hợp thu nhập của người này tăng lên 30 triệu đồng/tháng, số thuế phải nộp lên 2,55 triệu đồng. Như vậy, thu nhập của người nộp thuế tăng 50% nhưng số thuế phải nộp tăng lên gấp 2,8 lần, đồng thời từ mức thuế suất bậc 3 nhảy lên bậc 4. Thu nhập của người nộp thuế tăng không nhanh bằng tốc độ nộp thuế.

    Tinh Trang Thue Thu Nhap Ca Nhan1 1

    Có thể điều chỉnh ngay được

    Luật sư Trần Xoa phân tích: “Nếu chờ soạn thảo sửa đổi luật thì mất rất nhiều năm nữa mới có thể áp dụng được. Quốc hội có thể xem xét ra nghị quyết để giảm áp lực đối với người nộp thuế, cũng như có thể tránh hiện tượng né thuế, lách thuế mà số thu ngân sách lại tăng lên”.

    Theo vị luật sư này, mức giảm trừ gia cảnh năm 2009 ở mức 4 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế tăng lên 9 triệu đồng/tháng vào năm 2013, tương đương tăng 125% trong vòng 4,5 năm. Từ năm 2013 đến 2020 là 7 năm, nếu vẫn lấy mức tăng 125% của kỳ tăng trước, mức chiết trừ cho người nộp thuế 9 triệu đồng hiện nay phải ở con số 20 triệu đồng/tháng.

    Tại thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh lên 9 triệu đồng/tháng, ban soạn thảo sửa đổi luật Thuế TNCN cho rằng giảm thu ngân sách, thế nhưng con số thực hiện chứng minh điều ngược lại. Chỉ tính riêng trong năm thay đổi mức giảm trừ này là 2013, số thu thuế TNCN cũng đã tăng thêm 1.500 tỉ đồng dù 6 tháng đầu năm tính theo mức giảm trừ cũ 4 triệu, 6 tháng cuối năm mới tăng lên 9 triệu đồng.

    Đó là chưa kể những năm sau đó, số thuế TNCN tăng khá mạnh, năm 2017 gần như gấp đôi năm 2013.

    (Nguồn. Thanh Niên)

  • Lương trên 9 triệu có bị trừ thuế TNCN?

    Lương trên 9 triệu có bị trừ thuế TNCN?

    Người lao động có thu nhập chịu thuế phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Vậy, trường hợp cá nhân ký hợp đồng cộng tác viên và có lương trên lương trên 9 triệu có bị trừ thuế TNCN?

    Anh Đinh Quốc H (Hà Nội) hỏi: “Hiện nay, tôi đang đi làm cho một công ty và ký hợp đồng cộng tác viên, chưa được ký hợp đồng chính thức và không được đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, lương của tôi trên 09 triệu đồng thì có bị trừ thuế thu nhập cá nhân không?”

    Câu trả lời như sau:

    Vì anh không nói rõ hợp đồng cộng tác viên của anh thuộc loại nào nên có thể xảy ra 02 trường hợp sau:

    Trường hợp 1: Hợp đồng cộng tác viên của anh là hợp đồng dịch vụ

    (Hợp đồng dịch vụ do Bộ luật Dân sự điều chỉnh)

    Trong trường hợp này, thuế thu nhập cá nhân sẽ áp dụng theo phương pháp khấu trừ với mức 10% trước khi trả cho cá nhân. Cụ thể:

    Theo điểm i khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013:

    – Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng lao động dưới 03 tháng có tổng mức trả thu nhập từ 02 triệu đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế với mức 10% trước khi trả thu nhập cho cá nhân.

    Luong Tren 9 Trieu Co Bi Tru Thue TNCN

    Tiền thù lao là tiền nhận được dưới các hình thức như:

    + Tiền hoa hồng đại lý bán hàng hóa, tiền hoa hồng môi giới;

    + Tiền tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học, kỹ thuật;

    + Tiền tham gia các dự án, đề án;

    + Tiền nhuận bút theo quy định của pháp luật về chế độ nhuận bút;

    + Tiền tham gia các hoạt động giảng dạy;

    + Tiền tham gia biểu diễn văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao;

    + Tiền dịch vụ quảng cáo;

    + Tiền dịch vụ khác, thù lao khác.

    Lưu ý:

    – Anh có thể không bị khấu trừ nếu anh chỉ có duy nhất khoản thu nhập trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế. Trường hợp này, anh làm cam kết (theo mẫu 02/CK-TNCN tại Thông tư 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015) gửi công ty để làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ 10% thuế thu nhập cá nhân.

    – Mức phải nộp thuế: > 108 triệu đồng/năm (nếu không có người phụ thuộc).

    Trường hợp 2: Hợp đồng cộng tác viên là hợp đồng lao động

    – Nếu hợp đồng của anh ký với công ty tên là hợp đồng cộng tác viên nhưng các nội dung của hợp đồng đã ký theo quy định tại Điều 23 Bộ luật Lao động 2012… thì đó là hợp đồng lao động (tên là hợp đồng cộng tác viên nhưng bản chất là hợp đồng lao động).

    – Trường hợp anh có thu nhập chịu thuế (sau khi giảm trừ gia cảnh) thì thuế thu nhập cá nhân của anh sẽ tính theo phương pháp lũy tiến từng phần (không bị khấu 10% trước khi trả thu nhập).

    Tóm lại, nếu như không có người phụ thuộc để giảm trừ gia cảnh, với mức lương trên 9 triệu đồng/tháng, anh sẽ phải nộp thuế TNCN, dù hợp đồng của anh là hợp đồng dịch vụ hay hợp đồng lao động, dù anh có thuộc diện đóng BHXH bắt buộc hay không.

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Cách tính thuế thu nhập cá nhân khi cho thuê tài sản

    Cách tính thuế thu nhập cá nhân khi cho thuê tài sản

    Khi cá nhân cho thuê tài sản như cho thuê nhà, thuê ô tô…thì phải nộp thuế thu nhập nếu có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên. Dưới đây là hướng dẫn cách tính thuế thu nhập cá nhân khi cho thuê tài sản.

    Đối tượng và điều kiện nộp thuế khi cho thuê tài sản

    Theo khoản 1 Điều 4 Thông tư 92/2015/TT-BTC đối tượng và điều kiện nộp thuế thu nhập cá nhân với hoạt động cho thuê tài sản được quy định như sau:

    Đối tượng nộp thuế:

    Cá nhân cho thuê tài sản là cá nhân có phát sinh doanh thu từ cho thuê tài sản bao gồm:

    + Cho thuê nhà, mặt bằng, cửa hàng, nhà xưởng, kho bãi không bao gồm dịch vụ lưu trú;

    + Cho thuê phương tiện vận tải, máy móc thiết bị không kèm theo người điều khiển;

    + Cho thuê tài sản khác không kèm theo dịch vụ.

    Lưu ý:

    1 – Cá nhân cho thuê tài sản là cá nhân cư trú, gồm cá nhân, nhóm cá nhân và hộ gia đình có hoạt động cho thuê tài sản (theo Điều 1 Thông tư 92/2015/TT-BTC).

    2 – Dịch vụ lưu trú không tính vào hoạt động cho thuê tài sản gồm:

    + Cung cấp cơ sở lưu trú ngắn hạn cho khách du lịch, khách vãng lai khác;

    + Cung cấp cơ sở lưu trú dài hạn cho sinh viên, công nhân và những đối tượng tương tự;

    + Cung cấp cơ sở lưu trú cùng dịch vụ ăn uống và/hoặc các phương tiện giải trí.

    3 – Dịch vụ lưu trú không bao gồm: Cung cấp cơ sở lưu trú dài hạn được coi như cơ sở thường trú như cho thuê căn hộ hàng tháng hoặc hàng năm.

    Ai phải nộp thuế?

    – Khi cho thuê tài sản, trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận cụ thể ai là người phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

    – Nếu các bên không có thỏa thuận thì người cho thuê phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

    Điều kiện nộp thuế thu nhập cá nhân:

    Theo điểm b khoản 1 Điều 4 Thông tư 92/2015/TT-BTC thì cá nhân cho thuê tài sản có mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

    Lưu ý:

    – Trường hợp bên thuê trả tiền thuê tài sản trước cho nhiều năm thì khi xác định mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân không phải nộp thuế là doanh thu trả tiền một lần được phân bổ theo năm dương lịch.

    – Trường hợp cá nhân đồng sở hữu tài sản cho thuê thì mức doanh thu 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân không phải nộp thuế thu nhập cá nhân được xác định cho 01 người đại diện duy nhất trong năm tính thuế.

    Cách tính thuế thu nhập cá nhân khi cho thuê tài sản

    Công thức tính thuế:

    Số thuế TNCN phải nộp = Doanh thu tính thuế x 5%

    Trong đó doanh thu tính thuế:

    – Doanh thu tính thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động cho thuê tài sản là doanh thu bao gồm thuế (trường hợp thuộc diện chịu thuế) của số tiền bên thuê trả từng kỳ theo hợp đồng thuê và các khoản thu khác bao gồm khoản tiền phạt, bồi thường mà bên cho thuê nhận được theo thỏa thuận tại hợp đồng thuê.

    – Trường hợp bên thuê trả tiền thuê tài sản trước cho nhiều năm thì doanh thu tính thuế thu nhập cá nhân xác định theo doanh thu trả tiền một lần.

    Thời điểm xác định doanh thu tính thuế

    – Thời điểm xác định doanh thu tính thuế là thời điểm bắt đầu của từng kỳ hạn thanh toán trên hợp đồng thuê tài sản.

    Kết luận: Cá nhân cho thuê tài sản mà có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì phải nộp thuế thu nhập cá nhân với mức nộp là 5% (ví dụ: Cho thuê tài sản mà có thu nhập 200 triệu đồng/năm thì phải nộp thuế thu nhập cá nhân 10 triệu đồng).

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Cách tính thuế thu nhập cá nhân cho lao động thời vụ

    Cách tính thuế thu nhập cá nhân cho lao động thời vụ

    Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền phải nộp của cá nhân có thu nhập chịu thuế. Mỗi đối tượng và mỗi loại thu nhập sẽ có cách tính khác nhau. Dưới đây là cách tính thuế thu nhập cá nhân cho lao động thời vụ.

    Căn cứ:

    – Thông tư 111/2013/TT-BTC về hướng dẫn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân;

    – Thông tư 92/2015/TT-BTC hướng dẫn thực hiện các quy định về thuế.

    Cá nhân không ký HĐLĐ hoặc ký HĐLĐ dưới 03 tháng

    Theo điểm i khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động hoặc ký dưới 03 tháng thì thuế thu nhập cá nhân quy định như sau:

    Đối tượng nộp thuế và điều kiện

    – Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân gồm:

    1 – Cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động gồm các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công như sau:

    + Tiền thù lao nhận được dưới các hình thức như: Tiền hoa hồng đại lý bán hàng hóa, tiền hoa hồng môi giới; tiền tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; tiền tham gia các dự án, đề án; tiền nhuận bút theo quy định của pháp luật về chế độ nhuận bút; tiền tham gia các hoạt động giảng dạy; tiền tham gia biểu diễn văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao; tiền dịch vụ quảng cáo; tiền dịch vụ khác, thù lao khác.

    + Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị doanh nghiệp, ban kiểm soát doanh nghiệp, ban quản lý dự án, hội đồng quản lý, các hiệp hội, hội nghề nghiệp và các tổ chức khác.

    2 – Cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động dưới 03 tháng

    – Điều kiện nộp thuế:

    Có tổng mức trả thu nhập từ 02 triệu đồng/lần hoặc trên tháng trở lên.

    Mức thuế thu nhập cá nhân phải nộp

    Thuế phải nộp bằng 10% của tổng mức trả thu nhập cho người lao động. Cụ thể:

    – Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp động lao động dưới 03 tháng có tổng mức trả thu nhập từ 02 triệu đồng trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trước khi trả thu nhập cho cá nhân.

    Lưu ý:

    – Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu 02/CK-TNCN theo Thông tư 92/2015/TT-BTC) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.

    – Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế.

    – Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế và nộp cho cơ quan thuế.

    – Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế.

    – Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.

    Kết luận:

    – Cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng lao động dưới 03 tháng nếu người trả thu nhập mỗi lần hoặc tháng dưới 02 triệu đồng thì khi trả lương kế toán chỉ cần bản phô tô chứng minh nhân dân của người đó và lưu lại hợp đồng lao động, chứng từ thanh toán lương, bảng chấm công…

    – Nếu có mức chi trả từ 02 triệu đồng trở lên trên mỗi lần trả hoặc tháng thì kế toán sẽ khấu trừ 10% trước khi trả.

    – Nếu cá nhân có thu nhập tại một nơi và ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế sau khi giảm trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì phải làm cam kết để hưởng 100% tiền lương mà không bị khấu trừ 10%.

    (Nguồn. Luatvietnam)

  • Tiền nghỉ mát vẫn phải nộp thuế TNCN

    Tiền nghỉ mát vẫn phải nộp thuế TNCN

    Đây là nội dung chính được đề cập tại Công văn 1650/TCT-DNNCN của Tổng cục Thuế về việc hướng dẫn chính sách thuế thu nhập cá nhân (TNCN).

    Tien Nghi Mat Cung Phai Nop Thue TNCN

    Nghỉ mát là chính sách phúc lợi của không ít doanh nghiệp dành cho người lao động của mình. Tuy nhiên, theo Công văn này, tiền nghỉ mát cho cá nhân người lao động vẫn có thể phải nộp thuế TNCN.

    Cụ thể trong 02 trường hợp:

    – Tiền nghỉ mát ghi rõ tên cá nhân người nhận;

    – Tiền nghỉ mát thực tế được nhận từ doanh nghiệp.

    Do đó, chỉ khoản chi chung không ghi rõ tên cá nhân nhận thì mới không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN của người lao động.

    Công văn 1650/TCT-DNNCN ban hành ngày 24/4/2019.

    (Nguồn. LuatVietNam)