Thẻ: BLLĐ năm 2012

  • 5 Quy Định Mới Về Nội Quy Lao Động Áp Dụng Từ Năm 2021

    5 Quy Định Mới Về Nội Quy Lao Động Áp Dụng Từ Năm 2021

    Năm 2021 tới đây, Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2019 sẽ chính thức có hiệu lực. Theo đó nhiều quy định mới về nội quy lao động có sự thay đổi đáng kể.

    1/ Sử dụng dưới 10 lao động cũng phải có nội quy lao động

    Đây là một trong những điểm mới của BLLĐ năm 2019. Cụ thể khoản 1 Điều 118 BLLĐ 2019 quy định:

    Người sử dụng lao động phải ban hành nội quy lao động, nếu sử dụng từ 10 người lao động trở lên thì nội quy lao động phải bằng văn bản.

    Trong khi đó, khoản 1 Điều 119 Bộ Luật Lao Động năm 2012 chỉ yêu cầu doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản.

    Như vậy, từ năm 2021, mọi người sử dụng lao động đều phải ban hành nội quy lao động, kể cả doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động. Tuy nhiên nội quy lao động bằng văn bản chỉ bắt buộc với doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên.

    2/ Bổ sung thêm nhiều nội dung trong nội quy lao động

    Theo khoản 2 Điều 118 BLLĐ 2019, nội quy lao động không được trái pháp luật về lao động và quy định liên quan. Đồng thời phải bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

    • Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
    • Trật tự tại nơi làm việc;
    • An toàn, vệ sinh lao động;
    • Phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; trình tự, thủ tục xử lý hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc (quy định mới);
    • Việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động;
    • Trường hợp được tạm thời chuyển người lao động làm việc khác so với hợp đồng lao động (quy định mới);
    • Các hành vi vi phạm kỷ luật lao động và các hình thức xử lý;
    • Trách nhiệm vật chất;
    • Người có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động (quy định mới).

    Có thể thấy, so với BLLĐ năm 2012, nội quy lao động đã được bổ sung thêm 03 nội dung mới. Do đó, từ 2021, người sử dụng lao động phải bổ sung thêm các nội dung trên trong nội quy lao động của doanh nghiệp mình để phù hợp với quy định của pháp luật.

    3/ Doanh nghiệp có nhiều chi nhánh đăng ký nội quy lao động thế nào?

    Quy định mới về nội quy lao động
    Quy định mới về nội quy lao động

    Khoản 1 Điều 119 BLLĐ 2019 chỉ rõ, doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên bắt buộc phải thực hiện thủ tục đăng ký nội quy lao động tại cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh.

    Đặc biệt, khoản 4 Điều 119 BLLĐ năm 2019 đã luật hóa quy định về việc đăng ký nội quy lao động của doanh nghiệp có nhiều chi nhánh, đơn vị, cơ sở sản xuất, kinh doanh đặt ở nhiều địa bàn khác nhau.

    Trong trường hợp này, người sử dụng lao động phải gửi nội quy lao động đã được đăng ký đến cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp tỉnh nơi đặt chi nhánh, đơn vị, cơ sở sản xuất, kinh doanh.

    Trước đó, vấn đề này không được quy định trong BLLĐ năm 2012 mà được ghi nhận trong khoản 8 Điều 28 Nghị định 05/2015/NĐ-CP.

    4/ Thêm cơ quan thực hiện đăng ký nội quy lao động

    Theo BLLĐ năm 2012, chỉ có cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp tỉnh mới có thẩm quyền tiếp nhận và xem xét hồ sơ đăng ký nội quy lao động. BLLĐ năm 2019 đã bổ sung thêm thẩm quyền này cho cơ quan chuyên môn về lao động cấp huyện.

    Nội dung này được được ghi nhận tại khoản 5 Điều 119 BLLĐ 2019:

    Căn cứ điều kiện cụ thể, cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp tỉnh có thể ủy quyền cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp huyện thực hiện việc đăng ký nội quy lao động.

    Theo đó, cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp huyện cũng có quyền tiếp nhận và xem xét hồ sơ đăng ký nội quy lao động nếu được cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp tỉnh ủy quyền.

    5/ Quy định mới về nội quy lao động

    Điều 121 BLLĐ năm 2019 nêu rõ, nội quy lao động có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được đầy đủ hồ sơ đăng ký. So với Điều 122 BLLĐ năm 2012, nội dung “trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 120” (trường hợp nội quy lao động có quy định trái với pháp luật phải sửa đổi, bổ sung và đăng ký lại) đã bị bãi bỏ.

    Có thể thấy, quy định mới về nội quy lao động không làm ảnh hưởng đến tính hợp pháp do việc rà soát nội dung của nội quy lao động, thông báo, hướng dẫn sửa đổi, bổ sung và đăng ký lại sẽ được cơ quan có thẩm quyền tiến hành trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký (khoản 3 Điều 119 BLLĐ 2019).

    Bên cạnh đó, BLLĐ năm 2019 cũng chính thức ghi nhận, hiệu lực nội quy lao động bằng văn bản của doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động sẽ do người sử dụng lao động tự quyết định trong nội quy. Nội dung này chưa được quy định tại BLLĐ 2012 mà chỉ được nêu tại khoản 4 Điều 10 Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH.

  • 6 Quy Định Mới Về Kỷ Luật Lao Động Từ Năm 2021

    6 Quy Định Mới Về Kỷ Luật Lao Động Từ Năm 2021

    Ngày 01/01/2021, Bộ luật Lao động năm 2019 sẽ chính thức có hiệu lực. Theo đó, nhiều quy định liên quan đến kỷ luật lao động có sự thay đổi đáng kể so với Bộ luật Lao động 2012.

    1/ Thay đổi trong khái niệm “Kỷ luật lao động

    Điều 117 Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2019 nêu rõ:

    Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh do người sử dụng lao động ban hành trong nội quy lao động và do pháp luật quy định.

    Trong khi đó, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về khái niệm này như sau:

    Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động.

    Đối chiếu với nhau, có thể thấy, khái niệm kỷ luật lao động đã có sự thay đổi. Theo đó, kỷ luật lao động không chỉ là những quy định do người sử dụng lao động (NSDLĐ) ban hành trong nội quy lao động mà còn do pháp luật quy định.

    2/ Nội quy lao động phải nêu rõ người có quyền xử lý kỷ luật lao động

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 119 BLLĐ năm 2012, nội quy lao động được người sử dụng lao động ban hành không được trái với pháp luật về lao động và quy định khác có liên quan với 06 nội dung chủ yếu sau:

    – Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

    – Trật tự tại nơi làm việc;

    – An toàn lao động, vệ sinh lao động ở nơi làm việc;

    – Việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động;

    – Các hành vi vi phạm kỷ luật lao động của người lao động và các hình thức xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất.

    Bộ luật Lao động 2019 đã bổ sung thêm 03 nội dung trong nội quy lao động, đó là:

    • Phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; trình tự, thủ tục xử lý hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
    • Trường hợp được tạm thời chuyển người lao động làm việc khác so với hợp đồng lao động;
    • Người có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động.

    Theo đó, để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, từ ngày 01/01/2021, doanh nghiệp ban hành nội quy lao động phải có đủ 09 nội dung nói trên.

    Như vậy, việc quy định người có thẩm quyền xử lý kỷ luật là nội dung mới bắt buộc có trong nội quy lao động của doanh nghiệp.

    Ngoài ra, Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định rõ ràng hơn trong việc ban hành nội quy lao động so với hiện nay.

    Nếu như BLLĐ năm 2012 quy định NSDLĐ sử dụng từ 10 lao động trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản thì BLLĐ năm 2019 đã nêu rõ người sử dụng lao động phải ban hành nội quy lao động và chỉ bắt buộc hình thức văn bản với nội quy lao động của doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên.

    3/ Xử lý kỷ luật người lao động dưới 15 tuổi phải có mặt người đại diện

    Hiện này, khi tiến hành xử lý kỷ luật, người lao động phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Tuy nhiên, tại BLLĐ năm 2019, ngoài luật sư, người lao động có thể nhờ tổ chức đại diện người lao động bào chữa cho mình (theo điểm c khoản 1 Điều 122).

    BLLĐ năm 2012 quy định nguyên tắc khi kỷ luật người lao động dưới 18 tuổi phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật. Nội dung này đã được BLLĐ năm 2019 điều chỉnh lại. Theo đó, kỷ luật người chưa đủ 15 tuổi phải có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật (căn cứ khoản 1 Điều 122 BLLĐ năm 2019).

    Theo quy định tại Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2015, cha, mẹ đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên. Vì vậy BLLĐ năm 2019 đã bỏ quy định về sự có mặt của cha, mẹ người lao động chưa thành niên khi bị xử lý kỷ luật lao động.

    Bên cạnh đó, BLLĐ năm 2019 đã điều chỉnh độ tuổi dành cho nguyên tắc này. Đồng nghĩa với đó, từ ngày 01/01/2021, khi tiến hành xử lý kỷ luật phải có người đại diện theo pháp luật chỉ áp dụng với trường hợp người lao động dưới 15 tuổi.

    4/ Thay đổi về thời hiệu xử lý kỷ luật lao động

    Quy định mới đã không còn giới hạn thời hiệu tối đa xử lý kỷ luật lao động như quy định hiện nay tại BLLĐ năm 2012. Cụ thể, Điều 123 BLLĐ năm 2019 quy định:

    – Thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 06 tháng kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm (BLLĐ năm 2012 quy định thời hiệu tối đa là 06 tháng);

    – Trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 12 tháng (hiện nay đang quy định thời hiệu tối đa là 12 tháng).

    Pháp luật quy định người lao động sẽ không bị xử lý kỷ luật khi đang trong thời gian: Nghỉ ốm đau, điều dưỡng, tạm giam, tạm giữ, chờ kết quả xác minh, kết luận hoặc lao động nữ mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi…

    Tuy nhiên, BLLĐ năm 2019 cũng nêu rõ khi hết thời gian nói trên, nếu hết thời hiệu hoặc còn thời hiệu nhưng không đủ 60 ngày thì được kéo dài thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên.

    Trong khi hiện nay, Bộ luật Lao động 2012 quy định nếu còn thời hiệu thì người sử dụng lao động xử lý kỷ luật ngay hoặc đã hết thời hiệu thì được kéo dài nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên.

    Như vậy, khi hết thời gian không được xử lý kỷ luật mà còn thời hiệu nhưng không đủ 60 ngày thì sẽ được kéo dài thời hiệu đến không quá 60 ngày (hiện hành phải xử lý ngay, không được kéo dài).

    5/ Thêm trường hợp người lao động bị sa thải

    Căn cứ Điều 125 BLLĐ năm 2019, người sử dụng lao động được áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải trong trường hợp:

    – Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý tại nơi làm việc;

    – Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;

    – Người lao động gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động;

    – Người lao động quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động;

    – Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật;

    – Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

    So với BLLĐ năm 2012, quy định mới đã thêm 01 trường hợp bị áp dụng hình thức sa thải là người lao động có hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Tuy nhiên hành vi này phải được nêu rõ trong nội quy lao động mà doanh nghiệp ban hành.

    Việc bổ sung quy định này là cần thiết, đây được coi là giải pháp thiết thực giúp người lao động, đặc biệt là lao động nữ yên tâm làm việc.

    Ngoài ra Điều 125 BLLĐ năm 2019 cũng có sự sửa đổi đơn vị tính thời gian bằng ngày thay vì bằng tháng và năm, đồng thời thêm thời điểm bắt đầu tính thời gian tự ý bỏ việc của người lao động (hiện nay thời gian này được tính là 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày trong 01 năm).

    6/ Quy định rõ các hành vi bị cấm khi xử lý kỷ luật

    Điều 128 BLLĐ năm 2012 đã liệt kê các trường hợp bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật bao gồm:

    – Xâm phạm thân thể, nhân phẩm của người lao động;

    – Dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động;

    – Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động.

    BLLĐ năm 2019 vẫn kế thừa các quy định trên nhưng đồng thời có sự bổ sung làm rõ từng trường hợp tại Điều 127 như sau:

    1. Xâm phạm sức khỏe, danh dự, tính mạng, uy tín, nhân phẩm của người lao động.

    2. Phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.

    3. Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng lao động đã giao kết hoặc pháp luật về lao động không có quy định.

    Có thể thấy, với các quy định mới tại BLLĐ 2019, việc áp dụng các quy định liên quan đến hành vi bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật lao động sẽ dễ dàng hơn, tránh tình trạng người sử dụng lao động lạm quyền mà xử lý không đúng pháp luật.

    Trên đây là những phân tích về các điểm mới đáng chú ý về kỷ luật lao động của Bộ luật Lao động năm 2019 mà doanh nghiệp cũng như người lao động cần lưu ý.

    Theo Luatvietnam

  • Nghỉ việc không báo trước không còn phải bồi thường từ 2021.

    Nghỉ việc không báo trước không còn phải bồi thường từ 2021.

    Hiện nay, NLĐ nghỉ việc trái pháp luật sẽ phải bồi thường. Vậy từ năm 2021 NLĐ nghỉ việc không báo trước thì còn phải bồi thường nữa không?

    Nghỉ việc NLĐ phải báo trước bao nhiêu ngày?

    Hiện nay trong thời gian thử việc, NLĐ có quyền hủy bỏ HĐTV hoặc HĐLĐ đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường (căn cứ Điều 29 Bộ luật Lao động 2012).

    Riêng các trường hợp còn lại, theo Điều 37 BLLĐ năm 2012, NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn phải báo trước cho NSDLĐ:

    Thời gian báo trước

    Trường hợp

    Ít nhất 03 ngày làm việc

    – Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc;

    – Không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ;

    – Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ;

    – Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

    – Người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn: Bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục mà KNLĐ chưa được hồi phục;

    – Người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng:

    + Bị ốm đau, tai nạn đã điều trị ¼ thời hạn hợp đồng mà KNLĐ chưa được hồi phục;

    + Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ;

    + Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở CQDC hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy NN.

    Ít nhất 30 ngày

    – Người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn:

    + Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ;

    + Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở CQDC hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy NN

    Ít nhất 45 ngày

    NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Trừ trường hợp lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám chữa bệnh.
    Thời hạn tuỳ thuộc thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chỉ định LĐN mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.
    Từ 01/01/2021, theo Điều 35 BLLĐ năm 2019, thời gian báo trước khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ được quy định như sau:

    – Ít nhất 45 ngày: Nếu làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn;

    – ít nhất 30 ngày: Nếu làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn có thời hạn từ 12 – 36 tháng;

    – ít nhất 03 ngày: Nếu làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;

    – Theo quy định của Chính phủ: Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù.

    Do đó, từ năm 2021, NLĐ không căn cứ vào các trường hợp cụ thể mà căn cứ vào loại HĐLĐ đã ký kết với NSDLĐ. Việc này để xác định thời hạn thông báo trước khi nghỉ việc.

    Có thể thấy, quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho cả NSDLĐ và NLĐ trong việc giải quyết quyền, lợi ích của NLĐ khi nghỉ việc.

    Từ 2021, nghỉ việc không báo trước không còn phải bồi thường?

    Hiện nay, theo quy định tại Điều 43 Bộ luật Lao động 2012, NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thì không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho NSDLĐ nửa tháng tiền lương theo HĐLĐ.

    Đặc biệt, nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước phải bồi thường cho NSDLĐ một khoản tiền. Khoản tiền đó tương ứng với tiền lương của NLĐ trong những ngày không báo trước.

    Nếu trong quá trình làm việc, NLĐ ký hợp đồng đào tạo nghề với NSDLĐ. Sau khi nghỉ thì còn phải hoàn trả chi phí đào tạo cho NSDLĐ.

    Tuy nhiên, từ 2021, nếu thuộc một trong các trường hợp nêu tại khoản 2 Điều 35 BLLĐ năm 2021 dưới đây, NLĐ không phải báo trước khi nghỉ việc:

    – Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận;

    – Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn;

    – Bị NSDLĐ ngược đãi; đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;

    – Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc khi có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi;

    – Đủ tuổi nghỉ hưu;

    – NSDLĐ cung cấp thông tin không trung thực về công việc, địa điểm, điều kiện, thời giờ, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, VSLĐ, tiền lương, hình thức trả lương, BHXH, BHYT, BTHN… làm ảnh hưởng đến việc thực hiện HĐLĐ;

    – Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.

    Đồng nghĩa với đó, 07 trường hợp trên đây là trường hợp NLĐ nghỉ việc đúng luật mà không phải báo trước về việc nghỉ việc cho NSDLĐ biết. Do đó, NLĐ sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường khi nghỉ việc trái pháp luật.

    Như vậy, từ năm 2021, BLLĐ 2019 đã quy định cụ thể 07 trường hợp NLĐ được nghỉ việc không báo trước mà không phải bồi thường như phân tích ở trên.

    Theo LuatVietNam